Căn cứ vào giá trị nào để xác định quy mô gói thầu
Các bạn cho mình hỏi: Hiện giờ mình đang phê duyệt hồ sơ mời thầu xây lắp của 1 gói thầu trong 1 dự án gồm nhiều gói thầu mà theo QĐ phê duyệt kế hoạch đấu thầu của UBND Tỉnh thì giá gói thầu này là 3,4 tỷ. Nhưng theo QĐ phê duyệt TKBVTC và dự toán của Ban QLDA thì chi phí xây lắp là 2,1 tỷ.
Vậy với gói thầu này thì áp dụng mẫu HSMT theo quyết định 731/2008/QĐ-BKH hay mẫu HSMT quy mô nhỏ (<3 tỷ)?
Nếu dùng theo 731 thì các TCĐG rất cao, sẽ hạn chế các nhà thầu địa phương.
Gói thầu quy mô nhỏ có giá gói thầu < 3 tỷ đồng.
Trích dẫn:
Gửi bởi
lestrong
Em có quan điểm khác thấy trong cách lý giải trên, có 2 vấn đề:
1. Về giá gói thầu trong KHĐT đã duyệt và về dự toán được duyệt của gói thầu:
- Nghị định 58Cp hướng dẫn:
Giá gói thầu trong KHĐT xác định trên cơ sở Tổng mức đầu tư hoặc dự toán được duyệt (nếu có)
Trên cơ sở dự toán của gói thầu được duyệt sẽ thay thế giá gói thầu tong KHĐT đã duyệt (phải bảo đảm tổng giá trị cao hơn đó nằm trong tổng mức đầu tư của dự án được duyệt, trường hợp vượt tổng mức đầu tư phải thực hiện điều chỉnh tổng mức đầu tư theo quy định của pháp luật).
Nghị định 99Cp hướng dẫn:
2. Về quy định gói thầu có quy mô nhỏ < 3 tỷ:
Nghị định 58Cp hướng dẫn:
Căn cứ vào các hướng dẫn thêm nguyên tắc để áp dụng lựa chọn nhà thầu theo quy mô nhỏ khi gói thầu có giá gói thầu nhỏ hơn 3 tỷ.
Tình huống của bạn hoangocha99x2b hoàn toàn đủ cơ sở pháp lý để áp dụng hình thức lựa chọn nhà thầu xây lắp có quy mô nhỏ.
Tôi rất cám ơn em đã quan tâm nhưng cũng muốn tư vấn thêm cho em thế này: Đoạn em trích: "Trích: + 2. Trường hợp dự toán của gói thầu được duyệt thấp hơn hoặc cao hơn giá gói thầu đã duyệt thì dự toán sẽ thay thế giá gói thầu để làm cơ sở xem xét kết quả lựa chọn nhà thầu mà không phải làm thủ tục điều chỉnh giá gói thầu trong kế hoạch đấu thầu đã duyệt; trong trường hợp dự toán của các gói thầu do chủ đầu tư phê duyệt cao hơn giá gói thầu đã được người có thẩm quyền phê duyệt trong kế hoạch đấu thầu thì chủ đầu tư phải bảo đảm tổng giá trị cao hơn đó nằm trong tổng mức đầu tư của dự án được duyệt, trường hợp vượt tổng mức đầu tư phải thực hiện điều chỉnh tổng mức đầu tư theo quy định của pháp luật." phải hiểu là cách xử lý tình huống trong đấu thầu (khi xem xét kết quả lựa chọn nhà thầu) chứ không phải là nếu dự toán được duyệt < giá gói thầu được duyệt thì gói thầu quy mô nhỏ là gói thầu có dự toán được duyệt < 3 tỷ đồng. Muốn xác định gói thầu có phải là quy mô nhỏ hay không luôn phải xem giá gói thầu có < 3 tỷ đồng hay không.
Thử xử lý tình huống khác để hiểu thêm tình huống đang thảo luận
Trích dẫn:
Gửi bởi
lestrong
Em lại có quan điểm khác thầy trong lý giải này!
Em khẳng định đối với khoản 2 Nghị định 58Cp không phải dành cho "phải hiểu là cách xử lý tình huống trong đấu thầu (khi xem xét kết quả lựa chọn nhà thầu)"
Trước đây đối với nghị định 111Cp, Khi dự toán giá gói thầu cao hơn giá gói thầu đã duyệt trong KHĐT thì Chủ đầu tư phải xin cấp có thẩm quyền phê duyệt điều chỉnh nội dung KHĐT đã duyệt.
Nghị định 111Cp:
Tuy nhiên, qua Nghị đinmh5 58Cp thì điều này không cần nữa, Chủ đầu tư chỉ cần đảm bảo nguồn vốn được duyệt trong Tổng mức đầu tư của dự án.
Nghị định 58Cp:
Dự toán gói thầu được Chủ đầu tư phê duyệt là cơ sở để xác định giá gói thầu trong HSMT làm căn cứ để tổ chức lựa chọn nhà thầu.
Em xin có vài ý kiến phản biện ,mong nhận được thêm ý kiến của thấy.
Khoa học là thế đấy Lestrong ạ. Bây giờ tôi đặt ra một tình huống khác để em thử xử lý (tình huống này là giả định) và tôi hy vọng qua tình huống này em sẽ có quan điểm khác:
Giả sử một gói thầu xây lắp có giá gói thầu là 1.2 tỷ đồng và ghi trong kế hoạch đấu thầu được duyệt về hình thức lựa chọn nhà thầu là "Đấu thầu rộng rãi". Sau đó, dự toán gói thầu được lập và được phê duyệt là 0,95 tỷ đồng < 1 tỷ đồng (giả sử chưa có Luật 38, gói thầu xây lắp có giá gói thầu < 1 tỷ đồng được chỉ định thầu). Vấn đề đặt ra: Gói thầu này có thể chỉ định thầu hay vẫn phải tổ chức đấu thầu rộng rãi (theo kế hoạch đấu thầu đã duyệt)?
Em thử suy nghĩ và cho tôi biết quan điểm và cách xử lý tình huống này của em nhé. Sau đó tôi sẽ thảo luận tiếp với em về vấn đề em và tôi còn trái chiều được không?
Cách giải quyết tình huống đấu thầu chưa có quy định cách giải quyết
Trích dẫn:
Gửi bởi
lestrong
Em xin có ý kiến về tình huống của thầy nêu ra:
1. Em xin trích lại về các nội dung của 1 Kế hoạch đấu thầu theo Luật Đấu thầu
Với 7 nội dung trên, ngaọi trừ nội dung "b"-Giá gói thầu; Bất kỳ các nội dung nào khi có thay đổi so với Kế hoạch đấu thầu đã duyệt đều phải xin ý kiến cấp có thẩm quyền trước khi tổ chức đấu thầu.
Nội dung "b" chính là giá gói thầu, được "cởi trói" bởi Nghị định 58Cp quy định tại khoản 2 Điều 70.
Trở lại tình huống thầy nêu, khi có sự thay đổi về hình thức lựa chọn nhà thầu từ hình thức đấu thầu rộng rãi (giá gói thầu xây lắp tạm tính theo Tổng mức đầu tư của dự án là 1,2 tỷ-được duyệt trong Kế hoạch đấu thầu). Tuy nhiên, sau khi dự toán gói thầu được duyệt giảm xuống chỉ còn 0,9 tỷ, nếu vẫn áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi theo như Kế hoạch đấu thầu đã duyệt sẽ làm kéo dài thời gian, làm giảm tính hiệu quả của dự án,...hơn so với lựa chọn nhà thầu bằng hình thức chỉ định thầu (do thuộc phạm vi được chỉ định).
Như vậy, để được chỉ định thầu, Chủ đầu tư phải làm Tờ trình xin cấp có thẩm quyền thay đổi về hình thức lụa chọn nhà thầu. Từ hình thức đấu thầu rộng rãi sang chỉ định thầu với lý do dự toán gói thầu được duyệt nhỏ hơn 1 tỷ đồng.
Trên đây là cách xử lý của em, mong thấy có thêm chỉ bảo ạ!
Tôi đồng tình với em về cách giải quyết tình huống này. Điểm đáng chú ý trong cách giải quyết tình huống đấu thầu (theo quy định của PL đấu thầu) nếu PL chưa quy định cách giải quyết thì không thể coi dự toán được duyệt đương nhiên thay thế giá gói thầu được duyệt mà khi dự toán được duyệt khác giá gói thầu được duyệt (nếu chưa quy định cách giải quyết trong NĐ58) thì phải xin ý kiến người có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Trở lại tình huống gói thầu quy mô nhỏ mà chúng ta đang thảo luận: Tình huống này cũng chưa quy định cách giải quyết trong NĐ58, vì thế nếu muốn sử dụng mẫu HSMT gói thầu quy mô nhỏ thì phải xin ý kiến người có thẩm quyền chứ ko được xem dự toán được duyệt đương nhiên thay thế giá gói thầu được duyệt để sử dụng mẫu. Nếu người có thẩm quyền không chấp thuận (hoặc BMT / CĐT ko muốn xin ý kiến người có thẩm quyền) thì ko được coi gói thầu đó là gói thầu quy mô nhỏ.
Em có ý kiến thêm đi.
Một vấn đề khác cũng cần thảo luận
Trích dẫn:
Gửi bởi
mhientb
Đọc bài viết của Lestrong và dinhdangquang thấy 2 thày trò thảo luận rất sôi nổi. Tuy nhiên, tôi thấy cả 2 người đều đứng ở 2 góc độ khác nhau để kiến giải vấn đề. Cụ thể là:
Thày giáo (xin tạm gọi) dinhqangquang đứng ở góc độ lôgic của sự kiện và tham chiếu vào quy phạm pháp luật hiện hành.
Bạn Lestrong thì đứng ở góc độ xử lý nhanh vấn đề trong quản lý dự án trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật.
Qua các lý giải của 2 thày trò, tôi xin góp ý, nhưng trước hết cũng xin nói là tôi ủng hộ một phần ý kiến của mỗi bên.
- Về góc độ Lôgic của sự kiện "Kế hoạch đấu thầu" thì kiến giải như thày giáo dinhdangquang là chuẩn xác vì chưa có quyết định nào phủ định cũng như thay thế giá trị gói thầu đã được duyệt trong KHĐT. Về mặt luật pháp, không được tự hiểu rằng QĐ phê duyệt dự toán với giá trị 2,1 tỷ đương nhiên thay thế cho QĐ phê duyệt trước đó (3,4 tỷ). Tuy nhiên kiến giải của thày giáo dinhdangquang về việc phải áp dụng Quyết định số 731/2008/QÐ-BKH ngày 10/6/2008 của Bộ KH&ÐT là chưa thực sự chặt chẽ về mặt luật pháp. Xét về cả lý thuyết lẫn văn bản quy phạm pháp luật thì QĐ 731/2008/QÐ-BKH không nằm trong hệ thống quy phạm pháp luật.
+ Về lý thuyết: một văn bản QPPL bao giờ cũng gồm 3 phần: Giả định - Nội dung - Chế tài. Xem lại QĐ này, khó có ai cắt nghĩa được đâu là những điểm thuộc 3 phần trên đây. Giả sử coi Điều 3 của QĐ “Điều 3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương, Uỷ ban nhân dân các cấp và tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./. ”
là phần chế tài thì cũng không rõ ràng thậm chí còn không phù hợp với văn bản QPPL hiện hành.
+ Về phía QPPL: tại Điều 2, Luật Ban hành văn bản QPPL có nêu ra hệ thống VBQPPL gồm 12 loại. Trong đó, không nêu Quyết định của các Bộ. Do vậy, về QPPL thì ai đó yêu cầu phải thi hành (mang tính bắt buộc) QĐ 731/2008/QÐ-BKH là không đúng (chính xác ra là không hợp pháp)
- Về góc độ xử lý: Xét về góc độ xử lý tình huống trong QLDA thì việc bạn Lestrong đề xuất áp dụng cho gói thầu có quy mô nhỏ (theo QĐ 1744-2008-QĐ-BKH ngày 29/12/2008) là không sai luật (vì các QĐ đều không phải văn bản QPPL). Tuy nhiên, bạn Lestrong trích dẫn “…thấp hơn hoặc cao hơn giá gói thầu …” theo Điều 70 Xử lý tình huống trong đấu thầu là có thể hơi sớm vì nó dùng “để làm cơ sở xem xét kết quả lựa chọn nhà thầu ” chứ không phải quyết định vấn đề lập hồ sơ mời thầu theo kiểu gì.
Vậy thì nên xử lý thế nào?
Theo ý kiến riêng, tôi thấy cần nhìn nhận và đánh giá vấn đề một cách tổng thể từ căn cứ pháp lý, cơ sở áp dụng quy phạm pháp luật, tiến độ công trình, tình hình triển khai thực tế, thực trạng về số lượng và năng lực các nhà thầu v.v… để quyết định sao cho hợp lý và nhanh nhất.
Vì thế, chủ đầu tư không cần phải điều chỉnh KHĐT mà chỉ cần sửa đổi, bổ sung Mẫu theo QĐ 731/2008/QÐ-BKH theo tình hình thực tế (có rút gọn và đơn giản hoá) là tối ưu cách làm mà không sợ vi phạm bất cứ QPPL nào.
Xin lưu ý rằng: trong trang đầu tiên của Mẫu HSMT xây lắp ban hành kèm theo QĐ 731/2008/QÐ-BKH có hướng dẫn như sau:
“Khi áp dụng Mẫu này, chủ đầu tư có thể sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tính chất, quy mô của mỗi gói thầu song các nội dung sửa đổi, bổ sung không được trái Mẫu này. Việc đưa ra các yêu cầu trong HSMT phải trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế; không được đưa ra các điều kiện nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu, nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng.”
Nhân tiện đây, tôi thấy rằng về mặt Luật pháp, phần lớn các QĐ của Bộ KH-ĐT không phù hợp với yêu cầu về văn bản QPPL bằng các QĐ của Bộ xây dựng. QĐ của Bộ XD chỉ yêu cầu các Bộ, cơ quan, tổ chức, cá nhân... tham khảo để áp dụng.
Đề nghị các bạn phân tích thêm trên cơ sở vừa đảm bảo các quy định pháp luật vừa đảm bảo quyền tự chủ của doanh nghiệp.
Cám ơn bạn đã cùng tham gia thảo luận với chúng tôi về một vấn đề lẽ ra cũng ko cần phải bàn nhiều đến như thế đúng ko. Nhưng tôi cho rằng, nếu vấn đề này được tháo gỡ thì nhiều vấn đề khác nảy sinh sẽ ko cần phải bàn nhiều nữa vì tôi nghĩ tình huống trong đấu thầu thì muôn vàn nhưng NĐ58 mới chỉ quy định cách giải quyết cụ thể đối với 13 tình huống.
Thông qua ý kiến của bạn tôi thấy nảy sinh một vấn đề cũng cần được thảo luận thêm, đó là các mẫu tài liệu đấu thầu do Bộ KH&ĐT ban hành có phải áp dụng hay ko hay chỉ để tham khảo?
Trước hết tôi xin bộc bạch đôi chút để bạn hiểu tôi: Tôi ko phải là luật sư, cũng ko tốt nghiệp ngành luật, chỉ nghiên cứu luật để phổ biến cho các thế hệ sau tôi nên có thể có những điều "ngộ nhận" (vì ko được đào tạo bài bản về luật).
Về vấn đề bạn nêu (đánh giá): "tôi thấy rằng về mặt Luật pháp, phần lớn các QĐ của Bộ KH-ĐT không phù hợp với yêu cầu về văn bản QPPL bằng các QĐ của Bộ xây dựng. QĐ của Bộ XD chỉ yêu cầu các Bộ, cơ quan, tổ chức, cá nhân... tham khảo để áp dụng." tôi có một vấn đề đặt ra nhờ bạn giải thích:
Luật Đấu thầu: Điều 76. Hướng dẫn thi hành
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này.
NĐ58/2008/NĐ-CP:
Điều 67. Mẫu tài liệu đấu thầu
1. Mẫu tài liệu đấu thầu bao gồm mẫu hồ sơ mời sơ tuyển đối với gói thầu xây lắp; mẫu hồ sơ mời thầu và mẫu báo cáo đánh giá hồ sơ dự thầu đối với gói thầu dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; mẫu kế hoạch đấu thầu; mẫu báo cáo thẩm định kết quả đấu thầu và các mẫu khác.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm ban hành mẫu tài liệu đấu thầu.
Tôi thiển nghĩ (theo logic): Luật Đấu thầu quy định "CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật này" (Đ76), chấp hành điều này, CP ban hành NĐ 58, trong NĐ này CP quy định (yêu cầu) "Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm ban hành mẫu tài liệu đấu thầu. (Điều 67 NĐ58)". Chấp hành điều này Bộ KH&ĐT đã ban hành các mẫu tài tiệu đấu thầu (HSMT, Báo cáo kết quả lựa chọn nhà thầu, ...).
Như vậy, về phương diện pháp luật, bạn (tôi nghĩ bạn chắc là luật sư) có thể giải thích cho tôi hiểu rõ thêm: Các mẫu tài liệu đấu thầu do Bộ KH&ĐT ban hành có đủ tính pháp lý để bắt buộc các BMT áp dụng ko? Hay chỉ có tính chất tham khảo?
Muốn tìm hiểu thêm về pháp luật
Trích dẫn:
Gửi bởi
mhientb
Quay lại vấn đề trên xin có ý kiến với anh như sau:
1) Về Luật Ban hành Văn bản Quy phạm Pháp luật (QPPL) số 17/2008/QH12
Điều 2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã quy định chỉ bao gồm 12 loại văn bản QPPL nhưng tuyệt nhiên không có QĐ của các Bộ.
2) Về Điều 76 Luật Đấu thầu: “Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này”. Điều này có nghĩa là Thủ tướng (người đứng đầu chính phủ) phải ký ban hành văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thực hiện chứ không phải là các Bộ hướng dẫn vì Bộ là cơ cấu bộ máy thuộc Chính phủ mà không phải là Chính phủ. Kết quả là Nghị định 58/2008/NĐ-CP được ban hành.
3) Về khoản 2, Điều 67, NĐ58/2008/NĐ-CP: quy định “2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm ban hành mẫu tài liệu đấu thầu.”
Điều này có nghĩa mấy ý nghĩa sau:
- Luật của VN là luật khung, thông thường là phải có hướng dẫn luật (Nghị định) và thường là phải ban hành Thông tư để hướng dẫn thi hành Nghị định mới đem ra áp dụng. Vậy, khi không cần ban hành Thông tư thì những vấn đề có thể gây ra cách áp dụng khác nhau mà không có tính “chuẩn hoá” cũng cần được chỉ dẫn hay định hướng cho thống nhất tránh trường bhợp mỗi nơi, mỗi lúc làm 1 kiểu (Trường hợp này không cần Thông tư mà chỉ cần các QĐ liên quan).
- Việc NĐ 58/2008/NĐ-CP quy định tại khoản 2 nêu trên cho Bộ KH-ĐT không có nghĩa là (và cũng không thể tự suy luận là) QĐ-371 và mẫu tài liệu đó tương đương với Thông tư hoặc thay cho Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định. Trường hợp QĐ-371 ban hành Mẫu HSMT cũng tương tự như trường hợp của QĐ 957/2009/QĐ-BXD ngày 29/9/2009 về việc công bố định mức chi phí QLDA và tư vấn ĐTXD công trình.
- Khoản 2 nêu trên quy định cho Bộ KH-ĐT, chứ không phải quy định cho chính phủ và Bộ KH-ĐT là một cơ cấu thuộc bộ máy Chính phủ chứ không phải là Chính phủ. Vì thế cũng không nên đồng nhất các khái niệm khác nhau về cơ cấu tổ chức (organization).
- Khoản 2 nêu trên còn có nghĩa là Bộ KH-ĐT bị điều chỉnh bởi Điều 76 và không có cơ sở khẳng định rằng hoạt động của bên mời thầu cũng bị điều chỉnh theo kiểu nguyên lý bắc cầu: NĐ 58/2008/NĐ-CP ----(quy định bắt buộc)---> Bộ KH-ĐT ---> (ban hành) ---> QĐ 371 (quy định bắt buộc)---> Bên MT-Doanh nghiệp). Nếu thay vì Bộ KH-ĐT ban hành QĐ 371 mà là Thông tư ban hành Mẫu HSMT thì có cơ sở kết luận là băt buộc.
- Theo lôgic của quá trình ban hành văn bản QPPL thì Bộ KH-ĐT cần tiếp tục hướng dẫn thực hiện theo một “chuẩn mực chung” về tài liệu đấu thầu để áp dụng cho thống nhất và hiệu quả chứ không có nghĩa là QĐ 371 và Mẫu HSMT dùng để hướng dẫn thêm về Luật ĐT hoặc bổ sung hoặc thay thế nội dung nào đó của NĐ 58/2008/NĐ-CP. Thực tế là cũng không có quy định bổ sung, thay thế nào như vậy.
- Với diễn biến quá trình ban hành QPPL về ĐTXD nói riêng thì việc Bộ KH-ĐT ra QĐ 371 ban hành Mẫu HSMT làm làm “chuẩn mực chung” để áp dụng cũng tương tự việc làm của Bộ XD là không để Mẫu biên bản nghiệm thu nằm trong NĐ 209/2004/NĐ-CP mà chuyển vào TCVN 371-2006 để làm “chuẩn mực chung”. Tuy nhiên Mẫu HSMT của Bộ KH-ĐT sau này có làm như Bộ XD là đưa vào TCVN hay không thì chưa thể nói trước.
Qua các nội dung trình bày trên, có mấy vấn đề nổi lên về mặt lý luận sau:
1) Quyết định số 371/QĐ-BKH của Bộ KH-ĐT có phải là văn bản quy phạm pháp luật không? Xin phép trả lời câu hỏi này như sau:- Đối chiếu với quy định tại Điều 2, Luật số 17/2008/QH12 thì QĐ-371 không phải là văn bản QPPL.
- Ngoài ra, xét về bối cảnh hiện nay, Đảng và Nhà nước ta vẫn đang chủ trương tách quản lý nhà nước ra khỏi doanh nghiệp thì việc coi QĐ-371 là bắt buộc đối với DNNN chẳng hoá ra là Bộ KH-ĐT đã vô tình đi ngược lại chủ trương trên. Hơn nữa, nếu coi QĐ371 và mẫu HSMT đính kèm là QPPL (bắt buộc chung) thì tại sao lại cho phép người dùng sửa đổi, bổ sung QPPL thể hiện ngay trang đầu tiên của nó “Khi áp dụng Mẫu này, chủ đầu tư có thể sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tính chất, quy mô của mỗi gói thầu”
2) Nếu là văn bản Quy phạm pháp luật thì có mâu thuẫn với Ban hành Văn bản Quy phạm Pháp luật (QPPL) số 17/2008/QH12 không?
- Nếu QĐ 371 được coi là QPPL thì rất mâu thuẫn với Luật số 17/2008/QH12 nêu trên vì Luật có tính ưu tiên pháp lý cao hơn nên khi Luật đã không quy định thì không được hiểu sai khác đi.
3) Nếu QĐ số 371/QĐ-BKH không phải là văn bản Quy phạm pháp luật thì văn bản này thuộc loại văn bản gì?- Tuy không thuộc hệ thống văn bản QPPL nhưng nó vẫn là văn bản quy phạm và được cho là thuộc văn bản quy phạm xã hội khác. Quy phạm xã hội khác để phân biệt với QPPL như quy phạm đạo đức, tôn giáo, tập quán, quy phạm của các tổ chức kinh tế, xã hội, chính tri…
Tóm lại, về bản chất, QĐ 371 không phải là QPPL và vì thế nó không thể hiện tính chất cưỡng chế đối với các chủ đầu tư (là doanh nghiệp) vì thế chỉ nhằm để tham khảo và khuyến khích áp dụng. Tuy nhiên, đối với cơ quan hành chính sự nghiệp của Bộ KH-ĐT (có thể cả của Bộ khác) thì phải áp dụng vì đó là quyết định của Bộ Trưởng của Bộ này. Có lẽ đây là một trong những nguyên nhân mà mà báo cáo của Viện NCLP của UBTVQH nêu ra “chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, thiếu tính thống nhất về một số nội dung, khái niệm, dẫn tới việc hiểu và áp dụng pháp luật còn khác nhau”.
Trong thực tế, nhiều đơn vị đã linh hoạt vận dụng và đơn giản hóa mẫu HSMT đi rất nhiều (hoặc pha trộn giữa mẫu QĐ-371 với QĐ-1774) để có bộ HSMT hợp lý nhằm làm sao "mua" (lựa chọn được) được thứ mà thị trường có (nhà thầu) chứ không phải đặt ra HSMT để rồi không "mua" được thứ mà thị trường có nhưng chất lượng vừa phải hoặc thị trường không có (không có nhà thầu có năng lực quá cao). Quyền chủ động của doanh nghiệp có vốn nhà nước mà Nhà nước muốn hướng tới là làm sao DN tiến tới chủ động để chọn đúng người, đúng việc, cạnh tranh, nhanh chóng, hiệu quả...
Xin có vài lời trao đổi cùng anh, có điều gì xin được tiếp tục bàn thêm.
Rất cám ơn anh đã cho tôi thêm nhiều hiểu biết về kiến thức pháp luật. Anh nói là anh ko phải là luật sư nhưng tôi xin anh là "luật sư" cho tôi được ko.
mhientb thân mến, tôi vẫn muốn trao đổi thêm với anh vài ý nữa mà tôi chưa hiểu (hay nói đúng hơn là tôi có cảm giác là một số ý anh nêu chưa trúng vấn đề anh em mình đang trao đổi) và một số vấn đề tôi chưa đủ kiến thức pháp luật nhờ anh giải thích giúp:
1. Tôi hiểu là Luật đấu thầu chỉ điều chỉnh các hoạt động lựa chọn nhà thầu thực hiện các gói thầu thuộc dự án sử dụng vốn Nhà nước nghĩa là chỉ những CĐT các DA sử dụng vốn Nhà nước mới bắt buộc phải áp dụng, còn các CĐT các DA sử dụng các nguồn vốn khác thì không bắt buộc (theo như diễn giải của anh tôi cứ cảm thấy anh cho rằng các quy định PL về đấu thầu hiện hành có tính chất "cưỡng chế" đối với tất cả các CĐT hay DNNN!- những đoạn tôi bôi đỏ).
2. Anh có thể giải thích thêm cho tôi hiểu rõ hơn tính chất pháp lý của các văn bản: Nghị định Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Thông tư của các Bộ, Quyết định của Bộ trưởng các Bộ nhé vì các loại văn bản này tôi đều thấy quy định "Hiệu lực thi hành" và đều do Thủ tướng (hay Bộ trưởng) ký (hoặc Phó thủ tướng hay Thứ trưởng ký thay) . Để từ đó tôi có thể hiểu thêm điều anh viết "Nếu thay vì Bộ KH-ĐT ban hành QĐ 371 mà là Thông tư ban hành Mẫu HSMT thì có cơ sở kết luận là băt buộc".
3. Bây giờ nhiều thuật ngữ mới quá, đặc biệt 2 thuật ngữ: "Ban hành" (ví dụ như trong QĐ 731/QĐ-BKH (chứ ko phải 371 đâu) viết ở điều 2 là Ban hành kèm theo QĐ này "Mấu HSMT xây lắp") và "Công bố" (ví dụ như trong QD957/QĐ-BXD viết ở điều 1 là Công bố định mức ...) tôi cũng muốn anh giải thích thêm. Tôi hiểu thế này có đúng ko: "Ban hành" nghĩa là bắt buộc thi hành, còn "Công bố" nghĩa là cho biết để tham khảo chứ không bắt buộc thi hành.
Rất mong anh giúp đỡ.
Mẫu HSMT do Chính phủ quy định?
Trích dẫn:
Gửi bởi
mhientb
- Về góc độ Lôgic của sự kiện "Kế hoạch đấu thầu" thì kiến giải như thày giáo dinhdangquang là chuẩn xác vì chưa có quyết định nào phủ định cũng như thay thế giá trị gói thầu đã được duyệt trong KHĐT. Về mặt luật pháp, không được tự hiểu rằng QĐ phê duyệt dự toán với giá trị 2,1 tỷ đương nhiên thay thế cho QĐ phê duyệt trước đó (3,4 tỷ). Tuy nhiên kiến giải của thày giáo dinhdangquang về việc phải áp dụng Quyết định số 731/2008/QÐ-BKH ngày 10/6/2008 của Bộ KH&ÐT là chưa thực sự chặt chẽ về mặt luật pháp. Xét về cả lý thuyết lẫn văn bản quy phạm pháp luật thì QĐ 731/2008/QÐ-BKH không nằm trong hệ thống quy phạm pháp luật.
Đề nghị các bạn phân tích thêm trên cơ sở vừa đảm bảo các quy định pháp luật vừa đảm bảo quyền tự chủ của doanh nghiệp.
mhientb thân mến, hôm nay tôi đọc lại các bài viết của anh và NĐ58, NĐ85 để hệ thống hóa vấn đề đã nảy sinh thêm một vấn đề tôi muốn nhờ anh lý giải giúp nhé:
Khoản 2 điều 32 Luật Đấu thầu quy định: "Hồ sơ mời thầu được lập theo mẫu do Chính phủ quy định".
Trong các Nghị định Chính phủ về đấu thầu tôi đọc lại (NĐ58 và NĐ85) thấy có nhiều điều quy định phải theo mẫu HSMT của Bộ KH&ĐT ban hành, chẳng hạn: Mục b khoản 2 điều 15 và điều 23 NĐ58: "Hồ sơ mời thầu phải bao gồm các nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 32 của Luật Đấu thầu và mẫu hồ sơ mời thầu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành."
Như vậy, vấn đề đặt ra là: Mẫu HSMT do Bộ KH&ĐT ban hành theo nhiệm vụ Chính phủ giao nêu trong NĐ58 và NĐ85 có thể xem là Mấu HSMT do Chính phủ quy định (nêu trong Luật Đấu thầu) hay không?
Rất mong anh cho ý kiến thêm nhé (cả những vấn đề tôi còn chưa hiểu ở bài trước tôi đã nhờ anh giúp nữa).