Gửi bởi
dinhdangquang
Tôi xin tham gia vài ý kiến như sau:
1. Khi áp dụng định mức thì điều cần thiết trước tiên là phải đọc kỹ trang hướng dẫn áp dụng chung và những hướng dẫn bổ sung trong các mức cụ thể (nếu có). Về các mức quy định theo chiều cao trong tập định mức 1776 (ĐM 24) đã được ghi trong phần hướng dẫn áp dụng: "Chiều cao ghi trong định mức dự toán là chiều cao tính từ cốt ±0.00 theo thiết kế công trình đến cốt ≤4m; ≤16m; ≤50m và từ cốt ±0.00 đến cốt >50m" tôi nghĩ là rõ rồi:Chiều cao thi công cao nhất tính từ cốt 0,00. Theo đó, ví dụ công trình có độ cao thi công công tác xây cao nhất là 4m thì áp dụng định mức xây ứng với chiều cao <= 4m; nếu độ cao thi công công tác xây cao nhất là 12 m thì áp dụng định mức xây ứng với chiều cao <= 16 m; ...
==> Theo tôi: Không nên hiểu chiều cao quy định trong định mức là "chiều cao công trình" vì công trình có thể cao hơn chiều cao thi công lớn nhất; cũng không nên hiểu giản là "chiều cao công tác" nếu không so với cốt nào vì giả sử công tác xây tường ngăn (chiều cao bức tường ngăn là 3m) chỉ có ở tầng 2, chiều cao xây cao nhất so với cốt 0,00 giả sử là 8m thì có thể hiểu chiều cao công tác là 3m và cũng có thể hiểu là 8m. Theo tôi, chiều cao quy định trong định mức cần hiểu là chiều cao thi công cao nhất tính từ cốt 0,00.
2. Bộ Xây dựng công bố định mức đã giải thích rằng định mức đã tính bình quân các độ cao tính từ cốt 0,00 nên theo tôi, khi tính dự toán chỉ cần xác định chiều cao thi công cao nhất của một công tác nào đó tính từ cốt 0,00 để áp dụng định mức phù hợp là phù hợp với hướng dẫn áp dụng định mức. Ví dụ công tác xây tường thi công cao nhất độ cao 28m thì áp dụng định mức với chiều cao <= 50m.
3. Kiểm toán nếu yêu cầu tách khối lượng thi công theo các mức chiều cao 4m, 16m, 50m và > 50m để tính toán theo tôi là không đúng, cũng giống như Vinh nói trước 2009 tính như thế thì theo tôi cũng không đúng.