Project Management for Construction/Quản lý Dự án Xây dựng- Chapter I

  • Khởi xướng Hugolina
  • Ngày gửi
H

Hugolina

Guest
Chapter 1. The Owners' Perspective

Chương 1 – Bức tranh dự án của Chủ đầu tư

1.1 Introduction

Like the five blind men encountering different parts of an elephant, each of the numerous participants in the process of planning, designing, financing, constructing and operating physical facilities has a different perspective on project management for construction. Specialized knowledge can be very beneficial, particularly in large and complicated projects, since experts in various specialties can provide valuable services. However, it is advantageous to understand how the different parts of the process fit together. Waste, excessive cost and delays can result from poor coordination and communication among specialists. It is particularly in the interest of owners to insure that such problems do not occur. And it behooves all participants in the process to heed the interests of owners because, in the end, it is the owners who provide the resources and call the shots.

1.1.Giới thiệu
Giống như năm ông thầy bói xem voi, mỗi bên tham gia trong quá trình lập kế hoạch, thiết kế, lập dự toán, xây dựng và vận hành các công trình có các quan niệm khác nhau về quản lý dự án xây dựng. Kiến thức chuyên ngành có thể là rất có lợi, nhất là đối với các dự án lớn và phức tạp, vì các chuyên gia thuộc nhiều chuyên ngành có thể cung cấp các dịch vụ giá trị. Tuy nhiên, việc hiểu được sự gắn bó giữa các phần trong quy trình dự án với nhau cũng rất có ích. Sự kết hợp và liên lạc kém hiệu quả giữa các chuyên gia có thể gây ra sự lãng phí, phát sinh chi phí và chậm tiến độ công trình. Mối quan tâm của chủ đầu tư là làm sao đảm bảo để các vấn đề đó không xảy ra. Và tất cả các bên tham gia trong quy trình dự án phải quan tâm đến lợi ích của chủ đầu tư vì, xét cho cùng, chính chủ đầu tư là người cung cấp các nguồn lực và là người chỉ huy.

By adopting the viewpoint of the owners, we can focus our attention on the complete process of project management for constructed facilities rather than the historical roles of various specialists such as planners, architects, engineering designers, constructors, fabricators, material suppliers, financial analysts and others. To be sure, each specialty has made important advances in developing new techniques and tools for efficient implementation of construction projects. However, it is through the understanding of the entire process of project management that these specialists can respond more effectively to the owner's desires for their services, in marketing their specialties, and in improving the productivity and quality of their work.

Đứng trên quan điểm của các chủ đầu tư, chúng ta có thể chú tâm vào quy trình quản lý dự án hoàn chỉnh cho các công trình hơn là việc các chuyên gia trong quá khứ đã từng là nhà quy hoạch, kiến trúc sư, nhà thiết kế kỹ thuật, nhà xây dựng, chế tạo, nhà cung cấp vật tư, chuyên viên phân tích tài chính hay công việc nào khác. Đúng vậy, mỗi ngành đều đã có những tiến bộ quan trọng trong việc phát triển các công nghệ và công cụ mới giúp thực hiện hiệu quả các dự án xây dựng. Tuy nhiên, phải qua việc am hiểu được toàn bộ quá trình quản lý dự án, các chuyên gia này mới có thể đáp ứng được hiệu quả hơn yêu cầu của chủ đầu tư đối với các dịch vụ của mình, thông qua việc tiếp thị chuyên ngành của mình và thông qua việc cải thiện năng suất và chất lượng công việc của mình.

The introduction of innovative and more effective project management for construction is not an academic exercise. As reported by the "Construction Industry Cost Effectiveness Project" of the Business Roundtable:
By common consensus and every available measure, the United States no longer gets it's money's worth in construction, the nation's largest industry ... The creeping erosion of construction efficiency and productivity is bad news for the entire U.S. economy. Construction is a particularly seminal industry. The price of every factory, office building, hotel or power plant that is built affects the price that must be charged for the goods or services produced in it or by it. And that effect generally persists for decades ... Too much of the industry remains tethered to the past, partly by inertia and partly by historic divisions...

Việc giới thiệu phương pháp quản lý dự án xây dựng đổi mới và hiệu quả hơn không phải là một bài tập mang tính học thuật, mà như báo cáo trong tài liệu “ Dự án đạt hiệu quả chi phí trong xây dựng” của tổ chức Business Roundtable thì:
Theo sự nhất trí chung và các phương pháp tính toán hiện tại, Hoa Kỳ không còn kiếm được lợi nhuận về mặt tiền bạc từ xây dựng, ngành công nghiệp lớn nhất nước…Tính hiệu quả và năng suất xây dựng bị ăn mòn dần là một tin đáng buồn cho toàn nền kinh tế Hoa Kỳ. Xây dựng là một ngành công nghiệp có ảnh hưởng sâu xa. Giá của mỗi nhà máy, cao ốc văn phòng, khách sạn hay nhà máy điện đã xây dựng có ảnh hưởng đến giá cả của những hàng hóa hoặc dịch vụ được sản xuất ra từ đó. Và ảnh hưởng này đã tồn tại trong nhiều thập kỷ… Có quá nhiều thứ trong công nghiệp còn bị ràng buộc với quá khứ, phần vì sự trì trệ và phần do sự bất đồng trong quá khứ…

Improvement of project management not only can aid the construction industry, but may also be the engine for the national and world economy. However, if we are to make meaningful improvements, we must first understand the construction industry, its operating environment and the institutional constraints affecting its activities as well as the nature of project management.

Việc cải tiến công tác quản lý dự án không chỉ có thể hỗ trợ cho ngành xây dựng, mà còn có thể trở thành động lực cho nền kinh tế quốc nội và thế giới. Tuy nhiên, nếu muốn tạo ta những thay đổi có ý nghĩa thì đầu tiên chúng ta phải hiểu về ngành xây dựng, môi trường vận hành của nó và các giới hạn về mặt thể chế có ảnh hưởng đến các hoạt động của nó cũng như bản chất của quản lý dự án.
 
Last edited by a moderator:
H

Hugolina

Guest
1.2 The Project Life Cycle

The acquisition of a constructed facility usually represents a major capital investment, whether its owner happens to be an individual, a private corporation or a public agency. Since the commitment of resources for such an investment is motivated by market demands or perceived needs, the facility is expected to satisfy certain objectives within the constraints specified by the owner and relevant regulations. With the exception of the speculative housing market, where the residential units may be sold as built by the real estate developer, most constructed facilities are custom made in consultation with the owners. A real estate developer may be regarded as the sponsor of building projects, as much as a government agency may be the sponsor of a public project and turns it over to another government unit upon its completion. From the viewpoint of project management, the terms "owner" and "sponsor" are synonymous because both have the ultimate authority to make all important decisions. Since an owner is essentially acquiring a facility on a promise in some form of agreement, it will be wise for any owner to have a clear understanding of the acquisition process in order to maintain firm control of the quality, timeliness and cost of the completed facility.

Việc có được một công trình xây dựng hoàn thành thường biểu hiện cho một sự đầu tư vốn lớn, bất kể chủ đầu tư là một cá nhân, một tổ chức tư nhân hay Nhà nước. Do sự ràng buộc về các nguồn lực cho sự đầu tư xuất phát từ nhu cầu thị trường hoặc sự cần thiết theo đánh giá của chủ đầu tư, công trình được trông đợi sẽ đáp ứng được những mục tiêu nhất định trong phạm vi các giới hạn mà chủ đầu tư và các quy định liên quan định ra. Trừ thị trường đầu cơ nhà ở, nơi những ngôi nhà ở có thể được bán sau khi xây dựng theo ý tưởng của nhà kinh doanh bất động sản, phần lớn các công trình được xây dựng theo ý của chủ đầu tư. Một nhà kinh doanh bất động sản có thể được coi là người cấp vốn cho các dự án xây dựng nhà , cũng như một cơ quan Nhà nước có thể là bên cấp vốn cho một dự án công cộng và sau đó chuyển giao cho một đơn vị khác khi nó hoàn thành. Nhìn từ quan điểm quản lý dự án, khái niệm “chủ đầu tư” và “người cấp vốn” là đồng nghĩa với nhau vì cả hai đều có quyền cao nhất khi quyết định tất cả những vấn đề quan trọng. Vì chủ đầu tư mới có được công trình bằng một sự hứa hẹn dưới dạng thỏa thuận, sẽ là khôn ngoan nếu chủ đầu tư nắm rõ quá trình mua sắm để duy trì được sự quản lý chắc chắn về chất lượng, tiến độ và chi phí của công trình được xây dựng.

From the perspective of an owner, the project life cycle for a constructed facility may be illustrated schematically in Figure 1-1. Essentially, a project is conceived to meet market demands or needs in a timely fashion. Various possibilities may be considered in the conceptual planning stage, and the technological and economic feasibility of each alternative will be assessed and compared in order to select the best possible project. The financing schemes for the proposed alternatives must also be examined, and the project will be programmed with respect to the timing for its completion and for available cash flows. After the scope of the project is clearly defined, detailed engineering design will provide the blueprint for construction, and the definitive cost estimate will serve as the baseline for cost control. In the procurement and construction stage, the delivery of materials and the erection of the project on site must be carefully planned and controlled. After the construction is completed, there is usually a brief period of start-up or shake-down of the constructed facility when it is first occupied. Finally, the management of the facility is turned over to the owner for full occupancy until the facility lives out its useful life and is designated for demolition or conversion.

Từ góc độ của chủ đầu tư, vòng đời dự án cho một công trình xây dựng có thể được minh họa ở dạng đồ thị như Hình 1-1. Về cơ bản, một dự án được hình thành để đáp ứng các nhu cầu hoặc sự cần thiết của thị trường trong một giai đoạn nào đó . Ở giai đoạn lập đề cương sơ bộ có nhiều phương án được cân nhắc, tính khả thi về kỹ thuật và kinh tế của từng phương án cũng sẽ được đánh giá và so sánh để lựa chọn ra phương án tốt nhất. Kế hoạch tài chính cho các phương án đề xuất cũng phải được xem xét và việc lập chương trình dự án cũng phải tính toán đến thời gian hoàn thành dự án và khả năng về vốn. Sau khi quy mô dự án đã được xác định rõ ràng, dự toán chính thức sẽ được dùng làm cơ sở cho việc kiểm soát chi phí. Trong giai đoạn mua sắm (đấu thầu) và thi công, việc giao nhận vật tư và xây lắp công trình tại công trường phải được lập kế hoạch và kiểm soát chặt chẽ. Sau khi việc thi công hòan thành, thường có một thời gian ngắn để khởi động hoặc chạy thử công trình khi nó lần đầu tiên được đưa vào sử dụng. Cuối cùng, việc quản lý công trình được chuyển giao cho chủ đầu tư hoàn toàn sử dụng cho tới khi công trình hết tuổi thọ hữu ích của nó và sẽ được phá bỏ hoặc chuyển đổi.

fig1_1.gif
Hình 1-1: Vòng đời dự án của một công trình

The Project Life Cycle of a Constructed Facility

Of course, the stages of development in Figure 1-1 may not be strictly sequential. Some of the stages require iteration, and others may be carried out in parallel or with overlapping time frames, depending on the nature, size and urgency of the project. Furthermore, an owner may have in-house capacities to handle the work in every stage of the entire process, or it may seek professional advice and services for the work in all stages. Understandably, most owners choose to handle some of the work in-house and to contract outside professional services for other components of the work as needed. By examining the project life cycle from an owner's perspective we can focus on the proper roles of various activities and participants in all stages regardless of the contractual arrangements for different types of work.


Tất nhiên, các giai đoạn xây dựng nêu ở Hình 1-1 có thể không theo trình tự chặt chẽ. Tùy theo tính chất, quy mô và yêu cầu về tiến độ của dự án, một số giai đoạn đòi hỏi sự lặp lại, các giai đoạn khác lại có thể tiến hành song song, hoặc nhảy cách . Hơn nữa, chủ đầu tư có thể sử dụng năng lực nội bộ để kiểm soát công việc ở từng giai đoạn của cả quá trình, hoặc có thể tìm tư vấn hoặc dịch vụ chuyên môn cho công việc của tất cả các giai đoạn. Có thể hiểu được việc phần lớn các chủ đầu tư chọn việc tự thực hiện một số việc và thuê các dịch vụ bên ngoài cho một số phần công việc khác khi cần thiết. Qua việc đánh giá vòng đời dự án từ quan điểm của chủ đầu tư, ta có thể chú trọng vào vai trò phù hợp của các hoạt động và các bên tham gia trong tất cả các giai đoạn, bất kể việc hợp đồng cho các loại công việc khác nhau.

In the United States, for example, the U.S. Army Corps of Engineers has in-house capabilities to deal with planning, budgeting, design, construction and operation of waterway and flood control structures. Other public agencies, such as state transportation departments, are also deeply involved in all phases of a construction project. In the private sector, many large firms such as DuPont, Exxon, and IBM are adequately staffed to carry out most activities for plant expansion. All these owners, both public and private, use outside agents to a greater or lesser degree when it becomes more advantageous to do so.

Ở Mỹ, lấy ví dụ là Ngành kỹ thuật quân sự Mỹ có năng lực nội bộ để thực hiện việc lập kế hoạch, lên ngân sách tài chính, thiết kế, thi công và vận hành các công trình kiểm soát dòng chảy và lụt. Các cơ quan Nhà nước khác, ví dụ như các sở giao thông của bang, cũng tham gia rất sâu vào tất cả các giai đoạn của một dự án xây dựng. Ở khu vực tư nhân, nhiều công ty lớn như DuPont, Exxon và IBM có đủ nhân lực để thực hiện phần lớn các hoạt động để mở rộng nhà máy. Tất cả những chủ đầu tư này, cả ở khu vực nhà nước và tư nhân, đều sử dụng nhà thầu thuê ngoài ở mức độ nhiều hay ít khi thấy có lợi hơn.

The project life cycle may be viewed as a process through which a project is implemented from cradle to grave. This process is often very complex; however, it can be decomposed into several stages as indicated by the general outline in Figure 1-1. The solutions at various stages are then integrated to obtain the final outcome. Although each stage requires different expertise, it usually includes both technical and managerial activities in the knowledge domain of the specialist. The owner may choose to decompose the entire process into more or less stages based on the size and nature of the project, and thus obtain the most efficient result in implementation. Very often, the owner retains direct control of work in the planning and programming stages, but increasingly outside planners and financial experts are used as consultants because of the complexities of projects. Since operation and maintenance of a facility will go on long after the completion and acceptance of a project, it is usually treated as a separate problem except in the consideration of the life cycle cost of a facility. All stages from conceptual planning and feasibility studies to the acceptance of a facility for occupancy may be broadly lumped together and referred to as the Design/Construct process, while the procurement and construction alone are traditionally regarded as the province of the construction industry.

Vòng đời dự án có thể được coi như một quá trình mà qua đó dự án được thực hiện từ khi còn trứng nước đến khi bị phá bỏ. Qúa trình này thường rất phức tạp, tuy nhiên, nó có thể được chia thành nhiều giai đoạn như nêu tại phác thảo tổng thể ở Hình 1-1. Những giải pháp ở các giai đoạn khác nhau sau đó được kết hợp lại để tạo ra kết quả cuối cùng. Mặc dù mỗi giai đoạn yêu cầu về chuyên môn khác nhau, song nó thường bao hàm cả hoạt động về kỹ thuật lẫn quản lý trong lĩnh vực kiến thức của nhà chuyên gia. Chủ đầu tư có thể chọn cách chia cả quá trình thành nhiều hay ít giai đoạn tùy vào tính chất và quy mô của dự án để đạt được hiệu quả thực hiện cao nhất . Thường thì chủ đầu tư duy trì sự kiểm soát trực tiếp đối với các công việc ở giai đoạn lập kế hoạch và tiến độ, rồi tăng dần việc sử dụng tư vấn bên ngoài về kế hoạch và tài chính do tính phức tạp của các dự án. Do công tác vận hành và bảo dưỡng công trình sẽ được thực hiện trong thời gian dài sau khi dự án được hòan thành và được nghiệm thu nên nó thường được coi là một vấn đề được tách riêng trừ khi phải tính toán chi phí trong vòng đời cho công trình. Tất cả các giai đoạn từ lập đề cương sơ bộ và báo cáo khả thi đến khi nghiệm thu công trình để đưa vào sử dụng có thể tập hợp lại với nhau và được coi là quá trình Thiết kế/Thi công, trong khi riêng phần đấu thầu mua sắm và thi công thường được quan niệm theo cách truyền thống là lĩnh vực của ngành xây dựng.

Owners must recognize that there is no single best approach in organizing project management throughout a project's life cycle. All organizational approaches have advantages and disadvantages, depending on the knowledge of the owner in construction management as well as the type, size and location of the project. It is important for the owner to be aware of the approach which is most appropriate and beneficial for a particular project. In making choices, owners should be concerned with the life cycle costs of constructed facilities rather than simply the initial construction costs. Saving small amounts of money during construction may not be worthwhile if the result is much larger operating costs or not meeting the functional requirements for the new facility satisfactorily. Thus, owners must be very concerned with the quality of the finished product as well as the cost of construction itself. Since facility operation and maintenance is a part of the project life cycle, the owners' expectation to satisfy investment objectives during the project life cycle will require consideration of the cost of operation and maintenance. Therefore, the facility's operating management should also be considered as early as possible, just as the construction process should be kept in mind at the early stages of planning and programming.

Chủ đầu tư cần nhận thức rõ rằng không có riêng một biện pháp nào là tốt nhất cho việc tổ chức quản lý dự án trong suốt vòng đời dự án. Tất cả các phương pháp tổ chức đều có những ưu và nhược điểm , tùy thuộc vào kiến thức của chủ đầu tư về quản lý xây dựng cũng như loại hình, quy mô và địa điểm của dự án. Điều quan trọng đối với chủ đầu tư là phải biết được biện pháp nào phù hợp và có lợi nhất cho dự án của mình. Khi lựa chọn, chủ đầu tư cần lưu ý đến chi phí vòng đời của công trình hơn là chỉ đơn giản chú ý đến giá thành xây dựng. Tiết kiểm được những khoản tiền nhỏ trong khi xây dựng có thể là vô nghĩa nếu kết quả là chi phí vận hành lớn hơn nhiều hoặc không đạt các yêu cầu chức năng cho công trình mới . Do đó, chủ đầu tư phải rất quan tâm đến chất lượng của sản phẩm hòan thành cũng như chính chi phí xây dựng. Vì công tác vận hành và bảo trì là một phần trong vòng đời dự án nên việc chủ đầu tư mong muốn đạt được các mục tiêu về đầu tư trong vòng đời dự án sẽ đòi hỏi phải cân nhắc về chi phí vận hành bảo dưỡng. Vì thế, việc quản lý vận hành công trình cũng phải được xem xét càng sớm càng tốt, cũng như quá trình xây dựng phải được tính toán vào các giai đoạn đầu khi lập kế hoạch và tiến độ.
 
Last edited by a moderator:
H

Hugolina

Guest
1.3 Major Types of Construction/ Các loại hình xây dựng chính

Since most owners are generally interested in acquiring only a specific type of constructed facility, they should be aware of the common industrial practices for the type of construction pertinent to them. Likewise, the construction industry is a conglomeration of quite diverse segments and products. Some owners may procure a constructed facility only once in a long while and tend to look for short term advantages. However, many owners require periodic acquisition of new facilities and/or rehabilitation of existing facilities. It is to their advantage to keep the construction industry healthy and productive. Collectively, the owners have more power to influence the construction industry than they realize because, by their individual actions, they can provide incentives or disincentives for innovation, efficiency and quality in construction. It is to the interest of all parties that the owners take an active interest in the construction and exercise beneficial influence on the performance of the industry.
In planning for various types of construction, the methods of procuring professional services, awarding construction contracts, and financing the constructed facility can be quite different. For the purpose of discussion, the broad spectrum of constructed facilities may be classified into four major categories, each with its own characteristics.

Do phần lớn chủ đầu tư thường chỉ chuyên vào một loại hình xây dựng cụ thể, nên họ cần nắm được các hoạt động xây dựng chung cho loại hình xây dựng đó.Như vậy, ngành xây dựng là một khối bao gồm rất nhiều mảng và sản phẩm. Một số chủ đầu tư có thể mua đứt một công trình đã xây dựng một lần trong một thời gian dài và có xu hướng tìm kiếm các lợi ích ngắn hạn. Trong khi đó, nhiều chủ đầu tư lại chỉ muốn thuê ngắn hạn các công trình mới và/hoặc cải tạo lại những công trình hiện có. Việc giữ cho ngành công nghiệp xây dựng được lành mạnh và hiệu quả là vì lợi ích của họ. Nói chung, trên thực tế thì các chủ đầu tư có nhiều quyền tác động đến ngành xây dựng hơn là những gì họ nhận thức được, bởi vì, bằng những hành động cá nhân của mình, họ có thể làm tăng hay giảm sự tiên tiến, tính hiệu quả, và chất lượng trong xây dựng.
Việc chủ đầu tư quan tâm tích cực đến việc xây dựng và có những tác động có lợi đến các hoạt động của ngành sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các bên.

Khi lập kế hoạch cho các loại hình xây dựng, các phương pháp mua sắm dịch vụ chuyên ngành, trao thầu thi công và cấp tài chính cho công trình xây dựng có thể rất khác nhau. Với mục đích thảo luận, các cppng trình xây dựng có thể được chia theo tính chất thành 4 loại chính, mỗi loại đều có đặc trưng riêng.


Residential Housing Construction/Xây dựng nhà ở


Residential housing construction includes single-family houses, multi-family dwellings, and high-rise apartments. During the development and construction of such projects, the developers or sponsors who are familiar with the construction industry usually serve as surrogate owners and take charge, making necessary contractual agreements for design and construction, and arranging the financing and sale of the completed structures. Residential housing designs are usually performed by architects and engineers, and the construction executed by builders who hire subcontractors for the structural, mechanical, electrical and other specialty work. An exception to this pattern is for single-family houses which may be designed by the builders as well.

Xây dựng nhà ở bao gồm nhà ở một căn hộ, nhà ở nhiều căn hộ và chung cư cao tầng. Trong khi lập và xây dựng các dự án như vậy, người lập dự án và người cấp vốn có chuyên môn trong nghề xây dựng thường đóng vai trò thay thế chủ đầu tư và chịu trách nhiệm, lập các thỏa thuận hợp đồng thiết kế và thi công cần thiết, thu xếp các nguồn tài chính và kinh doanh cho các công trình hoàn thành. Việc thiết kế nhà ở thường do kiến trúc sư và kỹ sư đảm nhận, còn việc xây dựng thì do các nhà thầu xây dựng thực hiện, những nhà thầu này lại thuê các nhà thầu phụ cho các phần kết cấu, cơ điện và các công việc chuyên ngành khác. Mô hình này có ngoại lệ đối với nhà ở một căn hộ, có thể việc thiết kế sẽ do chính các nhà thầu xây dựng làm.


The residential housing market is heavily affected by general economic conditions, tax laws, and the monetary and fiscal policies of the government. Often, a slight increase in total demand will cause a substantial investment in construction, since many housing projects can be started at different locations by different individuals and developers at the same time. Because of the relative ease of entry, at least at the lower end of the market, many new builders are attracted to the residential housing construction. Hence, this market is highly competitive, with potentially high risks as well as high rewards.


Thị trường nhà ở bị ảnh hưởng lớn bởi tình hình kinh tế nói chung, các điều luật về thuế và các chính sách tiền tệ và tài chính của chính phủ. Thông thường, khi có sự tăng nhẹ về tổng cầu thì sẽ tạo ra sự đầu tư vốn XDCB vào xây dựng, vì vì nhiều dự án nhà ở có thể được khởi công cùng lúc bởi nhiều cá nhân và nhà thiết kế ở nhiều địa phương. Do việc tham gia khá dễ dàng nên ít nhất là ở phân khúc dưới của thị trường, nhiều nhà thầu xây dựng mới bị cuốn hút vào mảng xây dựng nhà ở, Do đó, thị trường này mang tính cạnh tranh cao, với nhiều rủi ro song lợi nhuận cũng rất lớn.


Institutional and Commercial Building Construction/Xây dựng nhà công sở và thương mại


Institutional and commercial building construction encompasses a great variety of project types and sizes, such as schools and universities, medical clinics and hospitals, recreational facilities and sports stadiums, retail chain stores and large shopping centers, warehouses and light manufacturing plants, and skyscrapers for offices and hotels. The owners of such buildings may or may not be familiar with construction industry practices, but they usually are able to select competent professional consultants and arrange the financing of the constructed facilities themselves. Specialty architects and engineers are often engaged for designing a specific type of building, while the builders or general contractors undertaking such projects may also be specialized in only that type of building.

Xây dựng nhà cho mục đích công sở và thương mại bao gồm rất nhiều loại và quy mô công trình, ví dụ như trường học phổ thông, trường đại học, trạm xá, bệnh viện, các công trình giải trí, sân vận động thể thao, chuỗi cửa hàng bán lẻ, các trung tâm mua sắm lớn, nhà kho, các nhà máy sản xuất công nghiệp nhẹ, các tòa nhà cao tầng dành cho văn phòng và khách sạn. Chủ đầu tư của các tòa nhà này có thể là nhà chuyên nghiệp hoặc không chuyên về xây dựng, song họ thường có thể lựa chọn được các nhà tư vần lành nghề thích hợp và thu xếp được tài chính cho các công trình đó. Các kiến trúc sư và kỹ sư chuyên ngành thường tham gia thiết kế chuyên về một loại công trình nhà , và các nhà thầu xây dựng hoặc tổng thầu thực hiện các dự án trên cũng có thể chỉ chuyên xây dựng một loại hình nhà nào đó.


Because of the higher costs and greater sophistication of institutional and commercial buildings in comparison with residential housing, this market segment is shared by fewer competitors. Since the construction of some of these buildings is a long process which once started will take some time to proceed until completion, the demand is less sensitive to general economic conditions than that for speculative housing. Consequently, the owners may confront an oligopoly of general contractors who compete in the same market. In an oligopoly situation, only a limited number of competitors exist, and a firm's price for services may be based in part on its competitive strategies in the local market.


Vì việc xây dưng nhà chuyên dụng cho công sở và thương mại thường có chi phí cao hơn và mang tính kỹ thuật hơn so với nhà ở nên thị trường này có ít đối tượng cạnh tranh hơn. Một số công trình thuộc loại này có thời gian xây dựng dài và khi khởi công thì phải thực hiện liên tục đến lúc hoàn thành nên nhu cầu đối với mảng xây dựng này cũng ít có ảnh hưởng đến nến kinh tế chung so với thị trường nhà ở.Kết quả là các chủ đầu tư có thể phải đối mặt với việc không kiểm soát được thị trường do các tổng thầu cùng cạnh tranh trong cùng thị trường. Trong tình thế không kiểm soát được thị trường, chỉ một số ít trong số tham gia cạnh tranh là còn trụ được, và giá dịch vụ xây dựng của một công ty có thể dựa một phần vào các chiến lược cạnh tranh của họ trong thị trường địa phương.
 
H

Hugolina

Guest
Specialized Industrial Construction/ Xây dựng công nghiệp chuyên ngành

Specialized industrial construction usually involves very large scale projects with a high degree of technological complexity, such as oil refineries, steel mills, chemical processing plants and coal-fired or nuclear power plants. The owners usually are deeply involved in the development of a project, and prefer to work with designers-builders such that the total time for the completion of the project can be shortened. They also want to pick a team of designers and builders with whom the owner has developed good working relations over the years.


Xây dựng công nghiệp chuyên ngành thường bao gồm các dự án có quy mô rất lớn với độ phức tạp về kỹ thuật cao, ví dụ như nhà máy lọc dấu, nhà máy SX thép, nhà máy sản xuất hóa chất, nhà máy nhiệt điện hoặc điện hạt nhân. Các chủ đầu tư thường tham gia sâu vào việc phát triển dự án, và thích làm việc với các nhà thầu vừa thiết kế vừa xây dựng sao cho tổng thời gian để hoàn thành dự án có thể được rút ngắn. Họ cũng muốn nhặt ra một đội thiết kế và xây dựng để chủ đầu tư có thể cộng tác làm ăn lâu dài.


Although the initiation of such projects is also affected by the state of the economy, long range demand forecasting is the most important factor since such projects are capital intensive and require considerable amount of planning and construction time. Governmental regulation such as the rulings of the Environmental Protection Agency and the Nuclear Regulatory Commission in the United States can also profoundly influence decisions on these projects.


Mặc dù việc khởi công các dự án như vậy cũng bị ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế, song dự báo được nhu cầu dài hạn mới là yếu tố quan trọng nhất vì các dự án này thường phải tập trung rất nhiều vốn và đòi hỏi lượng thời gian đáng kể cho thiết kế và thi công.Các quy định của chính phủ, như quy định của Cơ quan bảo vệ môi trường và Uỷ ban năng lượng hạt nhân tại Hoa Kỳ cũng có thể có tác động mạnh đến quyết định về các dự án này.
Infrastructure and Heavy Construction/Xây dựng hạ tầng và Xây dựng lớn

Infrastructure and heavy construction includes projects such as highways, mass transit systems, tunnels, bridges, pipelines, drainage systems and sewage treatment plants. Most of these projects are publicly owned and therefore financed either through bonds or taxes. This category of construction is characterized by a high degree of mechanization, which has gradually replaced some labor intensive operations.


Xây dựng hạ tầng và xây dựng lớn bao gồm các dự án như đường cao tốc, hệ thống trung chuyển lớn, đường hầm, cầu, tuyến ống, hệ thống thoát nước và các nhà máy xử lý nước thải. Hầu hết các dự án này đều là của công và do đó nguồn tài chính là từ trái phiếu hoặc thuế. Loại hình xây dựng này có đặc điểm là cơ giới hóa cao, giúp dần thay thế các công việc đòi hỏi nhiều nhân công.


The engineers and builders engaged in infrastructure construction are usually highly specialized since each segment of the market requires different types of skills. However, demands for different segments of infrastructure and heavy construction may shift with saturation in some segments. For example, as the available highway construction projects are declining, some heavy construction contractors quickly move their work force and equipment into the field of mining where jobs are available.


Các kỹ sư và nhà thầu làm trong ngành xây dựng hạ tầng thường có chuyên môn cao vì mỗi mảng thị trường đòi hỏi những loại kỹ năng khác nhau. Tuy nhiên, nhu cầu đối với các mảng xây dựng hạ tầng và xây dựng lớn có thể thay đổi do sự bão hòa trong một số mảng thị trường. Ví dụ, khi các dự án xây dựng đường cao tốc trở nên ít đi, một số nhà thầu xây dựng lớn chuyển ngay nhân lực và thiết bị sang lĩnh vực mỏ, là nơi đang sẵn việc.
1.4 Selection of Professional Services/Lựa chọn các dịch vụ chuyên ngành

When an owner decides to seek professional services for the design and construction of a facility, he is confronted with a broad variety of choices. The type of services selected depends to a large degree on the type of construction and the experience of the owner in dealing with various professionals in the previous projects undertaken by the firm. Generally, several common types of professional services may be engaged either separately or in some combination by the owners.


Khi một chủ đầu tư quyết định tìm kiếm các dịch vụ thiết kế và thi công chuyên ngành cho một công trình, anh ta sẽ phải đứng trước nhiều lựa chọn. Việc anh ta chọn loại dịch vụ nào phụ thuộc nhiều vào loại công trình và kinh nghiệm của chủ đầu tư trong các chuyên ngành mà họ đã thực hiện trong các dự án trước đó. Nói chung, Chủ đầu tư có thể dùng một loại dịch vụ chuyên ngành, hoặc kết hợp nhiều loại với nhau.

Financial Planning Consultants/Tư vấn lập kế hoạch tài chính

At the early stage of strategic planning for a capital project, an owner often seeks the services of financial planning consultants such as certified public accounting (CPA) firms to evaluate the economic and financial feasibility of the constructed facility, particularly with respect to various provisions of federal, state and local tax laws which may affect the investment decision. Investment banks may also be consulted on various options for financing the facility in order to analyze their long-term effects on the financial health of the owner organization.


ở giai đoạn đầu của bước lập kế hoạch chiến lược cho một dự án vốn, chủ đầu tư thường tìm dịch vụ của các nhà tư vấn lập kế hoạch tài chính, ví dụ như các công ty kiểm toán công có chứng chỉ ( CPA) để đánh giá sự khả thi về mặt tài chính và kinh tế của công trình xây dựng, nhất là các điều khoản về thuế của liên bang, của bang và của địa phương có thể gây ảnh hưởng đến quyết định đầu tư. Các ngân hàng đầu tư cũng có thể được tư vấn nhiều phương án vay vốn cho dự án để phân tích ảnh hưởng lâu dài đến tình hình tài chính của đơn vị chủ đầu tư.

Architectural and Engineering Firms/Các công ty Kiến trúc và Kỹ thuật

Traditionally, the owner engages an architectural and engineering (A/E) firm or consortium as technical consultant in developing a preliminary design. After the engineering design and financing arrangements for the project are completed, the owner will enter into a construction contract with a general contractor either through competitive bidding or negotiation. The general contractor will act as a constructor and/or a coordinator of a large number of subcontractors who perform various specialties for the completion of the project. The A/E firm completes the design and may also provide on site quality inspection during construction. Thus, the A/E firm acts as the prime professional on behalf of the owner and supervises the construction to insure satisfactory results. This practice is most common in building construction.


Theo cách truyền thống, chủ đầu tư thuê một công ty kiến trúc và kỹ thuật (A/E) (Người dịch tạm gọi là Tư vấn cho phù hợp với Việt Nam ) hoặc một liên doanh (công -xoóc-xi-um ) làm tư vấn kỹ thuật lập thiết kế sơ bộ. Sau khi thiết kế kỹ thuật và việc bố trí tài chính cho dự án đã hoàn tất, chủ đầu tư sẽ chọn ký hợp đồng thi công với một tổng thầu thông qua đấu thầu cạnh tranh hoặc thương thảo.Tổng thầu sẽ đóng vai trò một nhà thầu và/hoặc người điều phối của rất nhiều nhà thầu phụ thực hiện nhiều mảng công việc để hoàn thành dự án. Công ty tư vấn hoàn thành thiết kế và cũng có thể thực hiện việc giám sát chất lượng công trình trong thời gian thi công. Do đó, công ty tư vấn đóng vai trò nhà chuyên môn chính đại diện cho chủ đầu tư và giám sát việc thi công để đảm bảo kết quả thi công đạt yêu cầu. Đây là cách thức phổ biến nhất trong thi công xây dựng.


In the past two decades, this traditional approach has become less popular for a number of reasons, particularly for large scale projects. The A/E firms, which are engaged by the owner as the prime professionals for design and inspection, have become more isolated from the construction process. This has occurred because of pressures to reduce fees to A/E firms, the threat of litigation regarding construction defects, and lack of knowledge of new construction techniques on the part of architect and engineering professionals. Instead of preparing a construction plan along with the design, many A/E firms are no longer responsible for the details of construction nor do they provide periodic field inspection in many cases. As a matter of fact, such firms will place a prominent disclaimer of responsibilities on any shop drawings they may check, and they will often regard their representatives in the field as observers instead of inspectors. Thus, the A/E firm and the general contractor on a project often become antagonists who are looking after their own competing interests. As a result, even the constructibility of some engineering designs may become an issue of contention. To carry this protective attitude to the extreme, the specifications prepared by an A/E firm for the general contractor often protects the interest of the A/E firm at the expense of the interests of the owner and the contractor.


Trong hai chục năm qua, phương thức truyền thống này ngày càng ít được sử dụng hơn vì nhiều lý do, nhất là đối với các dự án có quy mô lớn. Các công ty tư vấn mà chủ đầu tư thuê làm nhà chuyên môn chính trong thiết kế và giám sát, ngày càng trở nên tách biệt ra khỏi quá trình thi công. Điều này xảy ra do áp lực giảm chi phí đối với các công ty tư vấn, nguy cơ gặp phải kiện tụng do các sai sót kỹ thuật và việc thiếu kiến thức về các công nghệ xây dựng mới trong lĩnh vực chuyên ngành kiến trúc và kỹ thuật công trình. Thay vì việc lập bản vẽ thi công cùng với thiết kế, nhiều công ty tư vấn không còn chịu trách nhiệm về các bản vẽ chi tiết thi công hay cung cấp giám sát mảng thi công theo giai đoạn nữa.Trên thực tế, các công ty đó sẽ từ chối các trách nhiệm đối với tất cả những bản vẽ thi công mà họ kiểm tra, và họ thường sẽ coi các đại diện của mình chỉ là quan sát viên chứ không phải là giám sát ở công trường. Vì thế tư vấn thiết kế và tổng thầu trong một dự án thường trở nên đối lập nhau vì hai bên đều phải cạnh tranh hòng tìm kiếm lợi ích cho mình. Kết quả là, ngay tính khả thi trong thi công của một số bản vẽ kỹ thuật cũng có thể trở thành vấn đề bàn cãi. Thêm nữa, các yêu cầu kỹ thuật mà công ty tư vấn đặt ra đối với tổng thầu thường bảo vệ lợi ích cho tư vấn đồng thời làm giảm lợi ích của chủ đầu tư và nhà thầu.


In order to reduce the cost of construction, some owners introduce value engineering, which seeks to reduce the cost of construction by soliciting a second design that might cost less than the original design produced by the A/E firm. In practice, the second design is submitted by the contractor after receiving a construction contract at a stipulated sum, and the saving in cost resulting from the redesign is shared by the contractor and the owner. The contractor is able to absorb the cost of redesign from the profit in construction or to reduce the construction cost as a result of the re-design. If the owner had been willing to pay a higher fee to the A/E firm or to better direct the design process, the A/E firm might have produced an improved design which would cost less in the first place. Regardless of the merit of value engineering, this practice has undermined the role of the A/E firm as the prime professional acting on behalf of the owner to supervise the contractor.


Để giảm chi phí xây dựng, một số chủ đầu tư dùng kỹ thuật định giá trị. Phương pháp này tìm cách giảm chi phí thi công xây dựng bằng cách có được một bản thiết kế thứ hai có chi phí thấp hơn thiết kế ban đầu do tư vấn lập. Trên thực tế, bản thiết kế thứ hai do nhà thầu lập và nộp cho chủ đầu tư sau khi đã nhận thầu thi công với một khoản tiền thỏa thuận, và việc tiết kiệm chi phí do thiết kế lại được san sẻ giữa nhà thầu và chủ đầu tư. Nhà thầu có thể tính chi phí thiết kế lại trừ vào lãi thi công hoặc giảm được chi phí xây dựng do thiết kế lại. Nếu chủ đầu tư chịu trả phí cao hơn cho tư vấn hoặc giám sát tốt quá trình thiết kế, tư vấn có thể đã lập được bản thiết kế với chi phí thấp ngay từ đầu. Dù giá trị của công tác kỹ thuật định giá trị thế nào, thì nó cũng làm giảm vai trò nhà chuyên môn chính thay mặt chủ đầu tư giám sát nhà thầu của tư vấn.
 
Last edited by a moderator:
H

Hugolina

Guest
Design/Construct Firms/Các công ty thiết kế -Thi công

A common trend in industrial construction, particularly for large projects, is to engage the services of a design/construct firm. By integrating design and construction management in a single organization, many of the conflicts between designers and constructors might be avoided. In particular, designs will be closely scrutinized for their constructibility. However, an owner engaging a design/construct firm must insure that the quality of the constructed facility is not sacrificed by the desire to reduce the time or the cost for completing the project. Also, it is difficult to make use of competitive bidding in this type of design/construct process. As a result, owners must be relatively sophisticated in negotiating realistic and cost-effective construction contracts.


Xu hướng chung trong xây dựng công nghiệp, nhất là đối với các dự án lớn, là sử dụng một nhà thầu vừa thiết kế vừa thi công. Việc gom quản lý thiết kế và thi công cho một tổ chức giúp tránh được mâu thuẫn giữa người thiết kế và nhà thầu thi công. Cụ thể là các bản vẽ sẽ được kiểm tra chặt chẽ về tính khả thi trong thi công. Tuy nhiên, một chủ đầu tư thuê một nhà thầu thiết kế/thi công cần đảm bảo rằng chất lượng của công trình sẽ không bị đánh đổi để rút ngắn thời gian hay chi phí để hoàn thành. Tương tự như vậy, khó mà áp dụng đấu thầu cạnh tranh trong loại quy trình thiết kế/thi công này. Kết cuộc là chủ đầu tư phải là người thông thạo trong việc đàm phán được các hợp đồng xây dựng thực tế và hiệu quả về chi phí.


One of the most obvious advantages of the integrated design/construct process is the use of phased construction for a large project. In this process, the project is divided up into several phases, each of which can be designed and constructed in a staggered manner. After the completion of the design of the first phase, construction can begin without waiting for the completion of the design of the second phase, etc. If proper coordination is exercised. the total project duration can be greatly reduced. Another advantage is to exploit the possibility of using the turnkey approach whereby an owner can delegate all responsibility to the design/construct firm which will deliver to the owner a completed facility that meets the performance specifications at the specified price.


Một trong những ưu điểm rõ ràng của quá trình kết hợp thiết kế/thi công là việc thi công theo giai đoạn đối với dự án lớn. Trong quá trình này, dự án được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có thể được thiết kế và thi công theo cách thức xen kẽ.Sau khi hoàn thành việc thiết kế cho giai đoạn thứ nhất, việc thi công có thể bắt đầu mà không cần phải đợi thiết kế xong giai đoạn hai..vv. Nếu phối hợp tốt, tổng tiến độ cho dự án có thể giảm được rất nhiều. Một ưu điểm nữa là khai thác được khả năng sử dụng phương thức “chìa khóa trao tay”, trong đó chủ đầu tư có thể ủy thác tất cả các trách nhiệm cho nhà thầu thiết kế/thi công và nhà thầu sẽ bàn giao cho chủ đầu tư công trình hoàn thành đạt các yêu cầu kỹ thuật thi công theo giá đã quy định.
Professional Construction Managers/Quản lý thi công chuyên nghiệp

In recent years, a new breed of construction managers (CM) offers professional services from the inception to the completion of a construction project. These construction managers mostly come from the ranks of A/E firms or general contractors who may or may not retain dual roles in the service of the owners. In any case, the owner can rely on the service of a single prime professional to manage the entire process of a construction project. However, like the A/E firms of several decades ago, the construction managers are appreciated by some owners but not by others. Before long, some owners find that the construction managers too may try to protect their own interest instead of that of the owners when the stakes are high.


Trong những năm gần đây, có một xu hướng mới là các quản lý thi công chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ quản lý từ khi bắt đầu đến khi kết thúc dự án xây dựng. Những nhà quản lý này phần lớn từ các công ty tư vấn hoặc các công ty tổng thầu vốn có thể hoặc không thể đóng được hai vai trò khi cung cấp dịch vụ cho chủ đầu tư. Trong mọi trường hợp, chủ đầu tư có thể dựa vào chỉ một nhà chuyên nghiệp chính để quản lý toàn bộ quá trình dự án. Tuy nhiên, cũng như các công ty tư vấn trong nhiều thập kỷ trước đây, các nhà quản lý xây dựng được một số chủ đầu tư này đánh giá cao, song đối với các chủ đầu tư khác lại không như vậy. Hiện tại, một số chủ đầu tư nhận ra rằng khi rơi vào tình huống khó khăn thì các nhà quản lý thi công cũng có thể chỉ cố gắng bảo vệ lợi ích của bản thân họ thay vì bảo vệ lợi ích của chủ đầu tư.


It should be obvious to all involved in the construction process that the party which is required to take higher risk demands larger rewards. If an owner wants to engage an A/E firm on the basis of low fees instead of established qualifications, it often gets what it deserves; or if the owner wants the general contractor to bear the cost of uncertainties in construction such as foundation conditions, the contract price will be higher even if competitive bidding is used in reaching a contractual agreement. Without mutual respect and trust, an owner cannot expect that construction managers can produce better results than other professionals. Hence, an owner must understand its own responsibility and the risk it wishes to assign to itself and to other participants in the process.


Có một điều rất rõ ràng đối với tất cả những bên tham gia vào quá trình xây dựng là bên nào được yêu cầu gánh nhiều rủi ro hơn sẽ đòi hỏi được lợi ích cao hơn. Nếu một chủ đầu tư muốn thuê một công ty tư vấn do công ty đó lấy giá rẻ chứ không phải là do họ có năng lực tốt thì tiền nào của nấy; hoặc nếu; hoặc nếu chủ đầu tư muốn tổng thầu chịu chi phí đối với các vấn đề chưa chắc chắn trong thi công, ví dụ như các điều kiện về móng, thì giá hợp đồng sẽ cao hơn cho dù có sử dụng đấu thầu cạnh tranh để đạt được thỏa thuận hợp đồng. Nếu không có sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau thì chủ đầu tư không thể trông mong nhà quản lý thi công làm được những điều tốt hơn các nhà chuyên môn khác. Di đó chủ đầu tư cần phải hiểu được trách nhiệm của họ cũng như những rủi ro mà họ định phân chia cho bản thân và các bên tham gia khác trong quy trình.
Operation and Maintenance Managers/Quản lý vận hành và bảo dưỡng

Although many owners keep a permanent staff for the operation and maintenance of constructed facilities, others may prefer to contract such tasks to professional managers. Understandably, it is common to find in-house staff for operation and maintenance in specialized industrial plants and infrastructure facilities, and the use of outside managers under contracts for the operation and maintenance of rental properties such as apartments and office buildings. However, there are exceptions to these common practices. For example, maintenance of public roadways can be contracted to private firms. In any case, managers can provide a spectrum of operation and maintenance services for a specified time period in accordance to the terms of contractual agreements. Thus, the owners can be spared the provision of in-house expertise to operate and maintain the facilities.


Mặc dù có nhiều chủ đầu tư có đội ngũ nhân viên cố định cho công tác vận hành và bảo dưỡng công trình hoàn thành, song cũng có những chủ đầu tư lại muốn thuê các nhà quản lý chuyên nghiệp làm nhiệm vụ đó. Có thể hiểu được rằng thường thì người ta sử dụng nhân viên trong nội bộ để làm công tác vận hành và bảo dưỡng cho các nhà máy công nghiệp chuyên ngành và các công trình hạ tầng, còn đối với các tài sản cho thuê như chung cư hay các tòa nhà văn phòng thì người ta thường sử dụng các nhà quản lý thuê ngoài. Tuy nhiên, cũng có những ngoại lệ. Ví dụ như có thể thuê các công ty tư nhân làm công việc bảo dưỡng đường công cộng. Trong mọi trường hợp, các nhà quản lý có thể cung cấp dịch vụ vận hành và bảo dưỡng trong một khoảng thời gian thỏa thuận theo các điều khoản hợp đồng. Vì thế chủ đầu tư có thể không cần đến nhân lực nội bộ để làm công tác vận hành và bảo dưỡng công trình.
 
H

Hugolina

Guest
Facilities Management/Quản lý công trình

As a logical extension for obtaining the best services throughout the project life cycle of a constructed facility, some owners and developers are receptive to adding strategic planning at the beginning and facility maintenance as a follow-up to reduce space-related costs in their real estate holdings. Consequently, some architectural/engineering firms and construction management firms with computer-based expertise, together with interior design firms, are offering such front-end and follow-up services in addition to the more traditional services in design and construction. This spectrum of services is described in Engineering News-Record (now ENR) as follows:
Facilities management is the discipline of planning, designing, constructing and managing space -- in every type of structure from office buildings to process plants. It involves developing corporate facilities policy, long-range forecasts, real estate, space inventories, projects (through design, construction and renovation), building operation and maintenance plans and furniture and equipment inventories.


Để tiếp tục có được các dịch vụ tốt nhất trong suốt vòng đời dự án của một công trình, một số chủ đầu tư và kinh doanh nhà tiếp nhận việc bổ sung kế hoạch chiến lược từ lúc ban đầu và bảo trì công trình để giảm các chi phí về không giang trong các cổ phần kinh doanh bất động sản của họ. Vì vậy, ngoài các dịch vụ mang tính truyền thống là thiết kế và thi công, một số công ty tư vấn và công ty quản lý thi công có chuyên môn về máy tính, cùng với các công ty thiết kế nội thất, còn chào mời các dịch vụ đầu vào và tiếp theo như vậy nữa. Chuỗi dịch vụ này được mô tả trên tạp chí Engineering News Record (nay là ENR) như sau :


Quản lý công trình là mảng công việc gồm lập kế hoạch, thiết kế, thi công và quản lý, nằm trong mỗi lại công trình từ cao ốc văn phòng đến nhà máy chế biến. Nó bao gồm việc phát triển các chiến lược về công trình của công ty, các dự báo dài hạn, sở hữu bất động sản, quỹ đất, các dự án, (qua thiết kế, xây dựng và cải tạo), các kế hoạch xây dựng, vận hành và bảo dưỡng, tồn kho trang thiết bị.


A common denominator of all firms entering into these new services is that they all have strong computer capabilities and heavy computer investments. In addition to the use of computers for aiding design and monitoring construction, the service includes the compilation of a computer record of building plans that can be turned over at the end of construction to the facilities management group of the owner. A computer data base of facilities information makes it possible for planners in the owner's organization to obtain overview information for long range space forecasts, while the line managers can use as-built information such as lease/tenant records, utility costs, etc. for day-to-day operations.


Một điểm chung của tất cả các công ty tham gia vào các dịch vụ mới mẻ này là họ đểu có năng lực về tin học tốt và và đầu tư nhiều vào mảng tin học. Ngoài việc sử dụng máy tính đễ hỗ trợ công tác thiết kế và quản lý xây dựng, trong dịch vụ có phần lập các file bản vẽ xây dựng mà sau này có thể được bàn giao lại cho các nhóm quản lý của chủ đầu tư khi kết thúc thi công. Dữ liệu mềm của các công trình giúp các nhà thiết kế trong tổ chức của chủ đầu tư có thể có được thông tin tổng quát về các dự báo diện tích dài hạn, trong khi các nhà quản lý ngành lại có thể sử dụng thông tin hoàn công như số liệu về việc cho thuê nhà, các chi phí dịch vụ hạ tầng,..vv cho công việc hàng ngày.
1.5 Construction Contractors/Nhà thầu thi công

Builders who supervise the execution of construction projects are traditionally referred to as contractors, or more appropriately called constructors. The general contractor coordinates various tasks for a project while the specialty contractors such as mechanical or electrical contractors perform the work in their specialties. Material and equipment suppliers often act as installation contractors; they play a significant role in a construction project since the conditions of delivery of materials and equipment affect the quality, cost, and timely completion of the project. It is essential to understand the operation of these contractors in order to deal with them effectively.


Các nhà xây dựng giám sát việc thi công các dự án xây dựng thường được gọi là nhà thầu/contractor, hay đúng ra là nhà thầu xây dựng/constructor. Tổng thầu thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau trong một dự án, còn các nhà thầu chuyên ngành như nhà thầu cơ khí hoặc điện thì thực hiện các công việc chuyên ngành của họ. Các nhà cung cấp vật tư thiết bị thường được gọi là nhà thầu lắp đặt/installation contractors; họ đóng vai trò đáng kể trong dự án xây dựng vì các điều kiện về giao vật tư thiết bị có ảnh hưởng đến chất lượng, chi phí và thời gian hoàn thành của dự án. Việc hiểu công việc của các nhà thầu này để có thể làm việc hiệu quả với họ là điều rất cần thiết.
General Contractors/Tổng thầu

The function of a general contractor is to coordinate all tasks in a construction project. Unless the owner performs this function or engages a professional construction manager to do so, a good general contractor who has worked with a team of superintendents, specialty contractors or subcontractors together for a number of projects in the past can be most effective in inspiring loyalty and cooperation. The general contractor is also knowledgeable about the labor force employed in construction. The labor force may or may not be unionized depending on the size and location of the projects. In some projects, no member of the work force belongs to a labor union; in other cases, both union and non-union craftsmen work together in what is called an open shop, or all craftsmen must be affiliated with labor unions in a closed shop. Since labor unions provide hiring halls staffed with skilled journeyman who have gone through apprentice programs for the projects as well as serving as collective bargain units, an experienced general contractor will make good use of the benefits and avoid the pitfalls in dealing with organized labor.


Chức năng của tổng thầu là phối hợp tất cả các nhiệm vụ trong một dự án xây dựng. Trừ khi chủ đầu tư tự thực hiện hoặc thuê một nhà quản lý thi công chuyên nghiệp thực hiện chức năng này, bằng không, một nhà tổng thầu tốt đã từng cùng làm việc với một đội giám sát, nhà thầu hoặc nhà thầu phụ chuyên ngành trong nhiều dự án có thể sẽ đạt hiệu quả nhất trong việc gây dựng được sự trung thành và hợp tác. Tổng thầu cũng cần hiểu biết về lực lượng lao động tham gia thi công. Lực lượng lao động có thể hoặc không tập trung, tùy theo quy mô và địa điểm của các dự án. Trong một số dự án, không ai trong số người lao động được thuê tham gia công đoàn, nhưng trong các trường hợp khác, cả người lao động có và không tham gia công đoàn đều làm cùng nhau trong cái gọi là xí nghiệp ngỏ/open shop (xí nghiệp dùng cả người tham gia và không tham gia công đoàn) hoặc tất cả người lao động đều phải tham gia công đoàn trong một xí nghiệp đòi hỏi người lao động phải là đoàn viên công đoàn (closed shop) Các nghiệp đoàn lao động thường có văn phòng với những cán bộ có kinh nghiệm, đã từng tham gia nhiều chương trình đào tạo cho các dự án và hoạt động với tư cách các nhóm thương thảo tập thể, do đó các tổng thầu có kinh nghiệm sẽ tận dụng các lợi ích và tránh các khó khăn khi làm việc với những người lao động có tổ chức.
Specialty Contractors/Nhà thầu chuyên ngành

Specialty contractors include mechanical, electrical, foundation, excavation, and demolition contractors among others. They usually serve as subcontractors to the general contractor of a project. In some cases, legal statutes may require an owner to deal with various specialty contractors directly. In the State of New York, for example, specialty contractors, such as mechanical and electrical contractors, are not subjected to the supervision of the general contractor of a construction project and must be given separate prime contracts on public works. With the exception of such special cases, an owner will hold the general contractor responsible for negotiating and fulfilling the contractual agreements with the subcontractors.


Nhà thầu chuyên ngành bao gồm các nhà thầu cơ khí, điện, ,móng, đào, phá công trình. Họ thường làm thầu phụ cho tổng thầu của dự án. Trong một số trường hợp, luật có thể đòi hỏi chủ đầu tư phải trực tiếp thuê các nhà thầu chuyên ngành. Ví dụ ở Bang New York, các nhà thầu chuyên ngành, ví dụ như nhà thầu cơ khí và nhà thầu điện, tham gia thầu các công trình công cộng, sẽ không nằm trong phần giám sát của tổng thầu xây dựng mà phải ký hợp đồng chính riêng biệt. Đối với những trường hợp đặc biệt như vậy, chủ đầu tư sẽ giữ trách nhiệm cảu tổng thầu trong thương thảo và thực hiện thỏa thuận hợp đồng với nhà thầu phụ.
Material and Equipment Suppliers/Các nhà cung cấp vật tư thiết bị

Major material suppliers include specialty contractors in structural steel fabrication and erection, sheet metal, ready mixed concrete delivery, reinforcing steel bar detailers, roofing, glazing etc. Major equipment suppliers for industrial construction include manufacturers of generators, boilers and piping and other equipment. Many suppliers handle on-site installation to insure that the requirements and contractual specifications are met. As more and larger structural units are prefabricated off-site, the distribution between specialty contractors and material suppliers becomes even less obvious.


Các nhà cung cấp vật tư chính gồm các nhà thầu chuyên ngành trong các lĩnh vực sản xuất và lắp dựng thép kết cấu, kim loại tấm, giao bê tông tươi, làm chi tiết thép gia cố, làm mái, lắp kính…Các nhà cung cấp thiết bị chính cho xây dựng công nghiệp gồm các nhà sản xuất máy phát điện, nồi hơi, đường ống và các thiết bị khác. Nhiều nhà cung cấp phụ trách luôn việc lắp đặt tại công trường để đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật theo hợp đồng. Khi các chi tiết kết cấu được làm sẵn ở nơi khác nhiều hơn và lớn hơn thì sự phân phối giữa các nhà thầu chuyên ngành và các nhà cung cấp vật tư thậm chí còn trở nên khó nhận biết hơn.
 
H

Hugolina

Guest
1.6 Financing of Constructed Facilities/Việc cấp vốn cho các công trình xây dựng

A major construction project requires an enormous amount of capital that is often supplied by lenders who want to be assured that the project will offer a fair return on the investment. The direct costs associated with a major construction project may be broadly classified into two categories: (1) the construction expenses paid to the general contractor for erecting the facility on site and (2) the expenses for land acquisition, legal fees, architect/engineer fees, construction management fees, interest on construction loans and the opportunity cost of carrying empty space in the facility until it is fully occupied. The direct construction costs in the first category represent approximately 60 to 80 percent of the total costs in most construction projects. Since the costs of construction are ultimately borne by the owner, careful financial planning for the facility must be made prior to construction.


Một dự án xây dựng lớn thường đòi hỏi một khoản vốn lớn do các bên cho vay cung cấp, và những người này muốn chắc chắn rằng dự án sẽ thu hồi được nhiều vốn. Các chi phí trực tiếp liên quan đến một dự án xây dựng lớn có thể được chia rộng ra thành hai khoản mục : (1) Các chi phí xây dựng phải trả cho tổng thầu để lắp dựng công trình tại công trường; (2) chi phí thuê đất, các khoản phí theo luật, phí tư vấn, phí quản lý thi công, lãi vay thi công và chi phí cơ hội cho mặt bằng công trình. Trong hầu hết các dự án xây dựng thì các chi phí xây dựng trực tiếp nêu ở mục (1) thường chiếm khoảng 60 – 80% tổng chi phí. Vì các chi phí xây dựng chủ yếu sẽ do Chủ đầu tư trả nên trước khi xây dựng cần phải lập kế hoạch tài chính rất kỹ càng cho công trình.

Construction Financing/ Cấp vốn xây dựng

Construction loans to contractors are usually provided by banks or savings and loan associations for construction financing. Upon the completion of the facility, construction loans will be terminated and the post-construction facility financing will be arranged by the owner.
Construction loans provided for different types of construction vary. In the case of residential housing, construction loans and long-term mortgages can be obtained from savings and loans associations or commercial banks. For institutional and commercial buildings, construction loans are usually obtained from commercial banks. Since the value of specialized industrial buildings as collateral for loans is limited, construction loans in this domain are rare, and construction financing can be done from the pool of general corporate funds. For infrastructure construction owned by government, the property cannot be used as security for a private loan, but there are many possible ways to finance the construction, such as general appropriation from taxation or special bonds issued for the project.


Các khoản vay để thi công công trình của nhà thầu thường do các ngân hàng hoặc các hiệp hội tín dụng và tiết kiệm ngành xây dựng cung cấp. Sau khi hoàn thành công trình, các khoản vay xây dụng sẽ đóng lại và chủ đầu tư sẽ lo vốn cho phần sau thi công công trình.
Các khoản vay cho các loại công trình khác nhau thì cũng có sự khác nhau. Trong trường hợp là vay xây dựng nhà ở, các hiệp hội hoặc các ngân hàng thương mại có thể các khoản vay xây dựng và thế chấp dài hạn. Đối với việc xây dựng nhà văn phòng và thương mại thì thường là vốn vay từ các ngân hàng thương mại. Do giá trị các công trình nhà công nghiệp chuyên dụng để thế chấp vay vốn thường hạn chế nên việc vay vốn xây dựng trong lĩnh vực này rất ít nên nguồn tài chính cho các công trình loại này thường là quỹ vốn góp của công ty. Đối với các công trình hạ tầng do nhà nước sở hữu, tài sản không thể đem làm vật bảo đảm cho các khoản vay riêng, song có nhiều cách để đáp ứng vốn xây dựng, như trích từ nguồn ngân sách có được từ thuế hoặc trái phiếu phát hành riêng cho dự án.


Traditionally, banks serve as construction lenders in a three-party agreement among the contractor, the owner and the bank. The stipulated loan will be paid to the contractor on an agreed schedule upon the verification of completion of various portions of the project. Generally, a payment request together with a standard progress report will be submitted each month by the contractor to the owner which in turn submits a draw request to the bank. Provided that the work to date has been performed satisfactorily, the disbursement is made on that basis during the construction period. Under such circumstances, the bank has been primarily concerned with the completion of the facility on time and within the budget. The economic life of the facility after its completion is not a concern because of the transfer of risk to the owner or an institutional lender.


Theo cách truyền thống, các ngân hàng đóng vai trò người cung cấp tín dụng trong một thỏa thuận ba bên giữa nhà thầu, chủ đầu tư và ngân hàng. Khoản vay đã thống nhất sẽ được trả cho nhà thầu theo một lịch thanh toán thỏa thuận sau khi được xác nhận là đã hoàn thành các phần việc tương ứng của dự án. Thường thì mỗi tháng nhà thầu sẽ gửi cho chủ đầu tư một đề nghị thanh toán kèm theo một báo cáo tiến độ chuẩn và chủ đầu tư sẽ gửi giấy đề nghị rút vốn cho ngân hàng. Nếu công việc cho đến thời điểm thanh toán được thực hiện đạt yêu cầu thì việc giải ngân sẽ được thực hiện theo trình tự đó trong suốt quá trình thi công. Trong các trường hợp đó, ngân hàng chỉ quan tâm chính vào việc công trình có hoàn thành đúng hạn và trong giới hạn ngân sách dự án hay không. Tuổi thọ kinh tế của công trình sau khi nó được hoàn thành không phải là điều quan tâm của ngân hàng vì rủi ro đã được chuyển sang cho chủ đầu tư hoặc một tổ chức cho vay.

Facility Financing/Cấp vốn cho công trình


Many private corporations maintain a pool of general funds resulting from retained earnings and long-term borrowing on the strength of corporate assets, which can be used for facility financing. Similarly, for public agencies, the long-term funding may be obtained from the commitment of general tax revenues from the federal, state and/or local governments. Both private corporations and public agencies may issue special bonds for the constructed facilities which may obtain lower interest rates than other forms of borrowing. Short-term borrowing may also be used for bridging the gaps in long-term financing. Some corporate bonds are convertible to stocks under circumstances specified in the bond agreement. For public facilities, the assessment of user fees to repay the bond funds merits consideration for certain types of facilities such as toll roads and sewage treatment plants. The use of mortgages is primarily confined to rental properties such as apartments and office buildings.


Nhiều công ty tư nhân duy trì một khoản quỹ chung lấy nguồn từ lợi nhuận còn lại và các khoản vay dài hạn bảo đảm bằng tài sản công ty để xây dựng công trình. Tương tự thì đối với các tổ chức nhà nước, vốn cho công trình có thể được lấy từ nguồn thuế của liên bang, của bang hoặc địa phương. Các công ty tư nhân hay tổ chức nhà nước này đều có thể phát hành trái phiếu đặc biệt cho công trình để có được lãi suất vay thấp hơn so với các hình thức vay khác. Cũng có thể dùng cách vay ngắn hạn để giải quyết việc bố trí vốn dài hạn. Một số trái phiếu công ty cso thể được chuyển đổi thành cổ phiếu theo các điều kiện quy định trong thỏa thuận trái phiếu. Đối với một số loại công trình công cộng như đường có thu phí giao thông hay các nhà máy xử lý nước thải thì việc tính toán được phí thu của người sử dụng để hoàn vốn trái phiếu rất có ích cho việc xem xét quyết định. Biện pháp thế chấp thường chỉ sử dụng cho các công trình cho thuê như các tòa nhà chung cư hay văn phòng.


Because of the sudden surge of interest rates in the late 1970's, many financial institutions offer, in addition to the traditional fixed rate long-term mortgage commitments, other arrangements such as a combination of debt and a percentage of ownership in exchange for a long-term mortgage or the use of adjustable rate mortgages. In some cases, the construction loan may be granted on an open-ended basis without a long-term financing commitment. For example, the plan might be issued for the construction period with an option to extend it for a period of up to three years in order to give the owner more time to seek alternative long-term financing on the completed facility. The bank will be drawn into situations involving financial risk if it chooses to be a lender without long-term guarantees.


Do sự tăng lãi suất đột ngột vào những năm cuối thập kỷ 70, ngoài các cam kết thế chấp dài hạn với mức cố định theo kiểu truyền thống, nhiều tổ chức tài chính còn có các dịch vụ cho vay khác, như kết hợp giữa khoản nợ với một tỷ lệ sở hữu làm điều kiện trao đổi đối với các khoản thế chấp dài hạn, hoặc sử dụng kiểu thế chấp có điều chỉnh về mức. Trong một số trường hợp, chủ đầu tư có thể được vay vốn xây dựng theo cơ chê mở, theo đó không đòi hỏi cam kêt vay vốn dài hạn. Ví dụ, việc vay vốn có thể gia hạn đến thời gian 3 năm để chủ đầu tư có thêm thời gian tìm nguồn vốn dài hạn thay thế cho công trình hoàn thành. Ngân hàng sẽ bị rơi vào thế chịu rủi ro tài chính nếu họ lựa chọn cho vay mà không có bảo đảm dài hạn.


For international projects, the currency used for financing agreements becomes important. If financial agreements are written in terms of local currencies, then fluctuations in the currency exchange rate can significantly affect the cost and ultimately profit of a project. In some cases, payments might also be made in particular commodities such as petroleum or the output from the facility itself. Again, these arrangements result in greater uncertainty in the financing scheme because the price of these commodities may vary.


Đối với các dự án quốc tế, đồng tiền sử dụng cho các thỏa thuận tài chính trở nên quan trọng. Nếu theo thỏa thuận tài chính đồng tiền của khoản vay là tiền bản địa thì sự dao động tỷ giá có thể ảnh hưởng đáng kể đến vốn đầu tư và lợi nhuận của dự án. Trong một số trường hợp, việc hoàn trả tiền vay có thể được tính bằng các hàng hóa cụ thể, như dầu hoặc sản phẩm đầu ra của công trình dự án. Một lần nữa, các thỏa thuận này lại làm ảnh hưởng thêm đến tính không chắc chắn của các quy định vay, vì giá của các mặt hàng này có thể thay đổi.

1.7 Legal and Regulatory Requirements/ Các y
êu cầu về pháp lý


The owners of facilities naturally want legal protection for all the activities involved in the construction. It is equally obvious that they should seek competent legal advice. However, there are certain principles that should be recognized by owners in order to avoid unnecessary pitfalls.


Chủ công trình thường muốn rằng tất cả các hoạt động xây dựng công trình đều được pháp luật bảo vệ. Điều hiển nhiên là họ cần tìm được tư vấn pháp lý phù hợp. Tuy nhiên chủ đầu tư cũng cần nắm rõ một số nguyên tắc nhất định để tránh các rắc rối không thể lường trước.
 
H

Hugolina

Guest
Legal Responsibilities/Trách nhiệm pháp lý

Activities in construction often involve risks, both physical and financial. An owner generally tries to shift the risks to other parties to the degree possible when entering into contractual agreements with them. However, such action is not without cost or risk. For example, a contractor who is assigned the risks may either ask for a higher contract price to compensate for the higher risks, or end up in non-performance or bankruptcy as an act of desperation. Such consequences can be avoided if the owner is reasonable in risk allocation. When risks are allocated to different parties, the owner must understand the implications and spell them out clearly. Sometimes there are statutory limitations on the allocation of liabilities among various groups, such as prohibition against the allocation of negligence in design to the contractor. An owner must realize its superior power in bargaining and hence the responsibilities associated with this power in making contractual agreements.


Các hoạt động trong xây dựng thường có những rủi ro cả về vật chất và tài chính. Khi giao kết các hợp đồng với các bên khác, chủ đầu tư thường cố gắng chuyển rủi ro cho phía đối tác ở mức tối đa có thể. Tuy nhiên, hành động đó không phải là không mất phí tổn hay rủi ro. Ví dụ, một nhà thầu nhận chịu các rủi ro thì có thể đòi giá hợp đồng cao hơn đề bù đắp cho sự rủi ro, hoặc sau này không hoàn thành hợp đồng hoặc tuyên bố phá sản khi bị rơi vào thế cùng. Các sự việc đó có thể tránh được nếu chủ đầu tư biết cách phân chia rủi ro một cách hợp lý. Khi rủi ro được phân ra cho các bên, chủ đầu tư cần phải hiểu được ý nghĩa và chỉ rõ ra. Đôi khi có những giới hạn về mặt pháp lý trong việc phân công trách nhiệm giữa các nhóm, ví dụ như việc cấm quy trách nhiệm về lơ là trong thiết kế đối với nhà thầu. Chủ đầu tư phải nhận thức được ưu thế về quyền lực của mình trong việc thương lượng và từ đó là các trách nhiệm liên quan đến quyền lực này khi lập các thỏa thuận hợp đồng

Mitigation of Conflicts/Giảm nhẹ các mâu thuẫn

It is important for the owner to use legal counselors as advisors to mitigate conflicts before they happen rather than to wield conflicts as weapons against other parties. There are enough problems in design and construction due to uncertainty rather than bad intentions. The owner should recognize the more enlightened approaches for mitigating conflicts, such as using owner-controlled wrap-up insurance which will provide protection for all parties involved in the construction process for unforeseen risks, or using arbitration, mediation and other extra-judicial solutions for disputes among various parties. However, these compromise solutions are not without pitfalls and should be adopted only on the merit of individual cases.


Một điều quan trọng đối với chủ đầu tư là cần sử dụng các tư vấn pháp lý giúp để làm giảm nhẹ các mâu thuẫn trước khi chúng xảy ra hơn là sử dụng cac mâu thuẫn làm vũ khí để đối lại các bên khác. Đã có quá đủ các rắc rối trong thiết kế và thi công do tính không chắc chắn hơn là do ý tưởng tồi. Chủ đầu tư cần tìm ra các giải pháp để giảm nhẹ mâu thuẫn, ví dụ như mua bảo hiểm thế chấp bao trùm do chủ đầu tư kiểm soát để bảo vệ tất cả các bên tham gia quá trình xây dựng tránh các rủi ro không thể lường trước, hoặc sử dụng trọng tài, cơ quan hòa giải hoặc các giải pháp phân xử bổ sung khác để giải quyết tranh chấp giữa các bên. Tuy nhiên, các giải pháp hòa giải này không phải là không có các vướng mắc và cần phải được áp dụng theo từng trường hợp cụ thể.

Government Regulation/Quy định của Nhà nước


To protect public safety and welfare, legislatures and various government agencies periodically issue regulations which influence the construction process, the operation of constructed facilities, and their ultimate disposal. For example, building codes promulgated by local authorities have provided guidelines for design and construction practices for a very long time. Since the 1970's, many federal regulations that are related directly or indirectly to construction have been established in the United States. Among them are safety standards for workers issued by the Occupational Health and Safety Administration, environmental standards on pollutants and toxic wastes issued by the Environmental Protection Agency, and design and operation procedures for nuclear power plants issued by the Nuclear Regulatory Commission.


Để bảo vệ an toàn và phúc lợi công cộng, các cơ quan lập pháp và các cơ quan khác của nhà nước định kỳ ra các văn bản quy định, các quy định này có tác động đến quá trình xây dựng, việc vận hành công trình sau này và nơi đổ chất thải cuối cùng. Ví dụ, các tiêu chuẩn xây dựng do chính quyền địa phương làm hướng dẫn cho công tác thiết kế và thi công trong một thời gian rất dài. Từ những năm 1970, nhiều quy định của liên bang có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến xây dựng đã được lập ra tại Hoa Kỳ, trong đó có các tiêu chuẩn về an toàn cho công nhân của Cục Sức khỏe và An toàn nghề nghiệp , các tiêu chuẩn môi trường cho các chất ô nhiễm và chất thải độc hại của Cơ quan Bảo vệ môi trường, quy trình thiết kế và vận hành các nhà máy điện hạt nhân của Uỷ ban quy chế về Hạt nhân.


Owners must be aware of the impacts of these regulations on the costs and durations of various types of construction projects as well as possibilities of litigation due to various contentions. For example, owners acquiring sites for new construction may be strictly liable for any hazardous wastes already on the site or removed from the site under the U.S. Comprehensive Environmental Response Compensation and Liability (CERCL) Act of 1980. For large scale projects involving new technologies, the construction costs often escalate with the uncertainty associated with such restrictions.

Các chủ đầu tư cần nắm rõ các ảnh hưởng của các quy định này đến chi phí và thời gian của từng loại dự án xây dựng cũng như các khả năng kiện tụng do các lý do tranh tụng khác nhau. Ví dụ như chủ đầu tư có đất xây dựng công trình mới có thể phải chịu trách nhiệm nghiêm ngặt đối với bất kỳ chất thải nguy hại nào đã có hoặc đã được chuyển đi khỏi hiện trường theo Luật Bồi thường và Trách nhiệm về môi trường (CERCL) năm 1980. Với các dự án quy mô lớn có áp dụng công nghệ mới, các chi phí xây dựng thường cộng thêm các rủi ro do các quy định này.

1.8 The Changing Environment of the Construction Industry/Sự thay đổi môi trường trong ngành xây dựng


The construction industry is a conglomeration of diverse fields and participants that have been loosely lumped together as a sector of the economy. The construction industry plays a central role in national welfare, including the development of residential housing, office buildings and industrial plants, and the restoration of the nation's infrastructure and other public facilities. The importance of the construction industry lies in the function of its products which provide the foundation for industrial production, and its impacts on the national economy cannot be measured by the value of its output or the number of persons employed in its activities alone.


Ngành xây dựng là một khối gồm nhiều ngành và các thành phần tham gia được gắn kết lỏng lẻo với nhau thành một bộ phận của nền kinh tế. Ngành công nghiệp xây dựng đóng một vai trò trung tâm trong phúc lợi quốc gia, bao gồm việc phát triển nhà ở, nhà văn phòng, các nhà máy công nghiệp, sửa sang các công trình hạ tầng quốc gia và các công trình hạ tầng khác. Tầm quan trọng của ngành công nghiệp xây dựng nằm ở chức năng của các sản phẩm của nó là tạo nền móng cho sản xuất công nghiệp và các tác động của nó đối với nền kinh tế quốc gia không thể chỉ đo bằng giá trị đầu ra của nó hay số lượng người làm trong ngành.


To be more specific, construction refers to all types of activities usually associated with the erection and repair of immobile facilities. Contract construction consists of a large number of firms that perform construction work for others, and is estimated to be approximately 85% of all construction activities. The remaining 15% of construction is performed by owners of the facilities, and is referred to as force-account construction. Although the number of contractors in the United States exceeds a million, over 60% of all contractor construction is performed by the top 400 contractors. The value of new construction in the United States (expressed in constant dollars) and the value of construction as a percentage of the gross national products from 1950 to 1985 are shown in Figures 1-6 and 1-7. It can be seen that construction is a significant factor in the Gross National Product although its importance has been declining in recent years. Not to be ignored is the fact that as the nation's constructed facilities become older, the total expenditure on rehabilitation and maintenance may increase relative to the value of new construction.


Cụ thể hơn, xây dựng là tất cả các loại hoạt động thường gắn với việc lắp dựng và sửa chữa các công trình cố định. Thầu xây dựng bao gồm rất đông các công ty thực hiện công việc xây dựng cho các đối tượng khác, và được ước tính là chiếm khoảng 85% tất cả các hoạt động xây dựng. 15% còn lại được do chủ đầu tư của công trình thực hiện và thường được gọi là xây dựng tự làm (force – account) . Mặc dù con số nhà thầu ở Hoa Kỳ có đến hơn một triệu, song có đến 60% công tác xây dựng theo hợp đồng thầu được thực hiện bởi 400 nhà thầu hàng đầu. Giá trị xây dựng mới ở Hoa Kỳ (tính bằng đồng đô la trị giá cố định) và giá trị xây dựng tính theo tỷ lệ trong tổng sản phẩm quốc nội từ năm 1950 đến năm 1985 được nêu ở Hình 1-6 và 1-7. Có thể thấy rằng xây dựng là một yếu tố quan trngj trong Tổng sản phẩm quốc nội, cho dù tầm quan trọng của nó đã bị suy giảm trong những năm gần đây. Một sự thật không thể làm ngơ là các công trình xây dựng của quốc gia ngày trở nên cũ đi, tổng chi phí cho cải tạo và tu bổ có thể tăng tương ứng với giá trị xây dựng mới.

1.JPG

Figure 1-6: Value of New Construction in the United States, 1975-1995
/ Giá trị xây dựng mới ở Hoa Kỳ giai đoạn 1975 - 1995​

2.JPG

Figure 1-7: Construction as Percentage of Gross Domestic Product in the United States, 1975-1995/Tỷ lệ Xây dựng trong Tổng sản phẩm quốc nội tại Hoa Kỳ, giai đoạn 1975 - 1995

Owners who pay close attention to the peculiar characteristics of the construction industry and its changing operating environment will be able to take advantage of the favorable conditions and to avoid the pitfalls. Several factors are particularly noteworthy because of their significant impacts on the quality, cost and time of construction.


Các chủ đầu tư quan tâm đến các đặc thù của ngành xây dựng và môi trường vận hành thay đổi của nó sẽ có thể có được các điều kiện thuận lợi và tránh được các trở ngại. Có nhiều yếu tố cần ghi nhớ vì chúng có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng, chi phí và thời gian xây dựng.
New Technologies/Công nghệ mới

In recent years, technological innovation in design, materials and construction methods have resulted in significant changes in construction costs. Computer-aids have improved capabilities for generating quality designs as well as reducing the time required to produce alternative designs. New materials not only have enhanced the quality of construction but also have shortened the time for shop fabrication and field erection. Construction methods have gone through various stages of mechanization and automation, including the latest development of construction robotics.


Trong những năm gần đây, các tiến bộ về công nghệ trong thiết kế, vật liệu và biện pháp thi công đã tạo ra những thay đổi đáng kể trong chi phí xây dựng. Sự giúp đỡ của máy tính đã cải thiện khả năng lập ra các thiết kế chất lượng cũng như giảm thời gian cần thiết để lập các thiết kế thay thế. Các vật liệu mới không chỉ giúp tăng cường chất lượng xây dựng mà còn giúp rút ngắn thời gian chế tạo tại nhà máy và lắp dựng tại công trường. Các biện pháp thi công đã qua rất nhiều giai đoạn áp dụng cơ khí hóa và tự động hóa, kể cả các tiến bộ mới nhất về khoa học người máy.


The most dramatic new technology applied to construction has been the Internet and its private, corporate Intranet versions. The Internet is widely used as a means to foster collaboration among professionals on a project, to communicate for bids and results, and to procure necessary goods and services. Real time video from specific construction sites is widely used to illustrate construction progress to interested parties. The result has been more effective collaboration, communication and procurement.


The effects of many new technologies on construction costs have been mixed because of the high development costs for new technologies. However, it is unmistakable that design professionals and construction contractors who have not adapted to changing technologies have been forced out of the mainstream of design and construction activities. Ultimately, construction quality and cost can be improved with the adoption of new technologies which are proved to be efficient from both the viewpoints of performance and economy.


Công nghệ mới tuyệt vời nhất được áp dụng cho xây dựng là Internet và các phiên bản Intranet các nhân và liên kết. Internet được sử dụng rộng rãi là một phương tiện thúc đẩy sự cộng tác giữa các chuyên gia trong một dự án, kết nối giữa các hồ sơ thầu và kết quả, cũng như mua sắm các hàng hóa và dịch vụ cần thiết. Video thời gian thực quay từ các công trường được sử dụng rộng rãi để minh họa cho các bên liên quan thấy tiến độ thi công . Kết quả là sẽ có được sự hợp tác, kết nối và mua sắm hiệu quả hơn.


Ảnh hưởng của các công nghệ mới đối với các chi phí xây dựng đã được pha trộn do chi phí đầu tư cao cho các công nghệ mới. Tuy nhiên, rõ ràng là các chuyên gia thiết kế và nhà thầu xây dựng không áp dụng việc thay đổi công nghệ đã bị loại ra khỏi dòng hoạt động thiết kế và thi công. Rốt cục, chất lượng và chi phí xây dựng có thể được cải thiện bằng việc áp dụng các công nghệ mới đã được chứng minh là hiệu quả từ góc độ quan điểm thi công và kinh tế.
 
Last edited by a moderator:
H

Hugolina

Guest
Labor Productivity/Năng suất lao động

The term productivity is generally defined as a ratio of the production output volume to the input volume of resources. Since both output and input can be quantified in a number of ways, there is no single measure of productivity that is universally applicable, particularly in the construction industry where the products are often unique and there is no standard for specifying the levels for aggregation of data. However, since labor constitutes a large part of the cost of construction, labor productivity in terms of output volume (constant dollar value or functional units) per person-hour is a useful measure. Labor productivity measured in this way does not necessarily indicate the efficiency of labor alone but rather measures the combined effects of labor, equipment and other factors contributing to the output.


Thuật ngữ “ năng suất” được xác định bằng tỷ lệ khối lượng đầu ra sản phẩm trên khối lượng đầu vào của các nguồn lực. Do cả đầu vào và đầu ra đều có thể lượng hóa bằng nhiều cách khác nhau, nên không có riêng một đơn vị đo lường năng suất nào được áp dụng chung, nhất là trong ngành xây dựng, nơi các sản phẩm thường là đơn nhất và không có tiêu chuẩn để quy định ra được các mức độ tập hợp số liệu. Tuy nhiên, do nhân công chiếm phần lớn chi phí xây dựng nên năng suất lao động ở sản lượng đầu ra ( giá trị đồng đô la cố định hoặc các đơn vị chức năng) tính theo người/giờ là một cách tính hữu ích. Năng suất lao động tính theo cách này không chỉ tính ra được hiệu suất lao động mà còn tính toán đượ các hiệu quả kết hợp giữa nhân công, thiết bị và các yếu tố khác tham gia vào sản phẩm đầu ra.


While aggregate construction industry productivity is important as a measure of national economy, owners are more concerned about the labor productivity of basic units of work produced by various crafts on site. Thus, an owner can compare the labor performance at different geographic locations, under different working conditions, and for different types and sizes of projects.

Construction costs usually run parallel to material prices and labor wages. Actually, over the years, labor productivity has increased in some traditional types of construction and thus provides a leveling or compensating effect when hourly rates for labor increase faster than other costs in construction. However, labor productivity has been stagnant or even declined in unconventional or large scale projects.

Trong khi năng suất tổng hợp của ngành xây dựng rất quan trọng, được coi là thước đo của nền kinh tế quốc dân thì các chủ đầu tư lại quan tâm nhiều hơn đến năng suất lao động của các đơn vị công việc cơ bản do các nhóm thợ khác nhau thực hiện tại công trường. Do đó, chủ đầu tư có thể so sánh hiệu suất nhân công khi thực hiện công việc ở các vị trí địa lý khác nhau, trong các điều kiện làm việc khác nhau, và làm các dự án thuộc loại hay quy mô khác nhau.

Chi phí xây dựng thường tăng song song với giá vật tư và giá nhân công. Trên thực tế, qua nhiều năm, năng suất lao động đã tăng lên trong một số loại hình xây dựng truyền thống và do đó đã tạo ra sự bù đắp khi giá nhân công tính theo giờ tăng nhanh hơn các chi phí xây dựng khác. Tuy nhiên, năng suất lao động đã không tăng hoặc thậm chí còn giảm sút trong các dự án đặc biệt hoặc các dự án có quy mô lớn.

Public Scrutiny/Sự giám sát của cộng đồng

Under the present litigious climate in the United States, the public is increasingly vocal in the scrutiny of construction project activities. Sometimes it may result in considerable difficulty in siting new facilities as well as additional expenses during the construction process itself. Owners must be prepared to manage such crises before they get out of control.

Trong thời buổi nhiều kiện tụng như hiện nay ở Hoa Kỳ, công chúng ngày càng có nhiều ý kiến nhận xét về các hoạt động dự án xây dựng. Đôi khi việc này có thể gây những khó khăn đáng kể cho việc tìm địa điểm xây dựng một công trình mới cũng như tăng chi phí trong quá trình xây dựng. Chủ đầu tư cần chuẩn bị để quản lý được những chỉ trích thắc mắc này trước khi chúng vượt ra khỏi tầm kiểm soát.

Figure 1-8 can serve to indicate public attitudes towards the siting of new facilities. It represents the cumulative percentage of individuals who would be willing to accept a new industrial facility at various distances from their homes. For example, over fifty percent of the people surveyed would accept a ten-story office building within five miles of their home, but only twenty-five percent would accept a large factory or coal fired power plant at a similar distance. An even lower percentage would accept a hazardous waste disposal site or a nuclear power plant. Even at a distance of one hundred miles, a significant fraction of the public would be unwilling to accept hazardous waste facilities or nuclear power plants.

Hình 1-8 minh họa về thái độ của dân chúng đối với việc chọn địa điểm cho các công trình mới, trong đó có nêu tỷ lệ lũy kế số cá nhân muốn chấp nhận một công trình công nghiệp mới ở cách nhà họ những khoảng cách khác nhau. Ví dụ, trên 50% số người được khảo sát chấp nhận việc xây một cao ốc văn phòng 10 tầng cách nhà họ trong vòng 5 dặm, nhưng chỉ có 25% chấp nhận việc có một nhà máy sản xuất lớn hoặc một nhà máy nhiệt điện chạy than ở khoảng cách tương tự. Và tỷ lệ người chấp nhận có một bãi chứa rác thải có nguy cơ độc hại hoặc một nhà máy điện hạt nhân còn thấp hơn. Ngay cả ở khoảng cách 100 dặm thì cũng rất nhiều người không chấp nhận việc xây dựng bãi chứa rác thải độc hại hay nhà máy điện hạt nhân.


[IMG=file:///C:/DOCUME%7E1/Welcome/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG]

Figure 1-8:
Public Acceptance Towards New Facilities (Reprinted from Environmental Quality - 1980, the Eleventh Annual Report of the Council on Environmental Quality, U.S. Government Printing Office, Washington, DC, December 1980.)
/ Sự chấp nhận của cộng đồng đối với các công trình mới ( In lại từ Báo cáo chất lượng Môi trường năm 1980 – Báo cáo năm lần thứ 11 của Hội đồng Chất lượng Môi trường)

This objection to new facilities is a widespread public attitude, representing considerable skepticism about the external benefits and costs which new facilities will impose. It is this public attitude which is likely to make public scrutiny and regulation a continuing concern for the construction industry.

Kiểu thành kiến đối với các công trình mới này là thái độ phổ biến của dân chúng, biểu hiện thái độ hoài nghi về các lợi ích và chi phí bên ngoài mà các công trình mới sẽ đặt ra.Chính thái độ này của tạo ra sự giám sát của dân chúng và tạo thành mối quan tâm liên tục đối với ngành xây dựng.

International Competition/Cạnh tranh quốc tế

A final trend which deserves note is the increasing level of international competition in the construction industry. Owners are likely to find non-traditional firms bidding for construction work, particularly on large projects. Separate bids from numerous European, North American, and Asian construction firms are not unusual. In the United States, overseas firms are becoming increasingly visible and important. In this environment of heightened competition, good project management and improved productivity are more and more important.

A bidding competition for a major new offshore drilling platform illustrates the competitive environment in construction. As described in the Wall Street Journal:
Through most of the postwar years, the nation's biggest builders of offshore oil platforms enjoyed an unusually cozy relationship with the Big Oil Companies they served. Their top officials developed personal friendships with oil executives, entertained them at opulent hunting camps- and won contracts to build nearly every major offshore oil platform in the world....But this summer, the good-old boy network fell apart. Shell [Oil Co.] awarded the main contract for [a new] platform - taller than Chicago's Sears Tower, four times heavier than the Brooklyn Bridge - to a tiny upstart.

Có một xu hướng cần quan tâm là mức độ gia tăng cạnh tranh quốc tế trong xây dựng. Chủ đầu tư có xu hướng tìm các công ty mới để đấu thầu cho các công trình xây dựng, nhất là các dự án lớn. Những hồ sơ thầu độc lập từ các công ty xây dựng ở Châu Âu, Bắc Mỹ và châu Á không còn là điều lạ lẫm. Ở Hoa Kỳ, các công ty nước ngoài ngày càng được biết đến và trở nên quan trọng. Trong môi trường cạnh tranh cao này, việc quản lý tốt dự án và năng suất tốt ngày càng quan trọng.

Lấy ví dụ sự cạnh tranh trong đấu thầu cho một giàn khoan ngoài khơi trọng yếu để minh họa về môi trường cạnh tranh trong xây dựng. Như miêu tả trong Tờ Wall Street Journal:

Trong phần lớn những năm hậu chiến, các nhà thầu lớn nhất trong nước về giàn khoan ngoài khơi đã có những mối quan hệ thoải mái ở mức không bình thường với các công ty dầu khí lớn mà họ cung cấp dịch vụ. Các quan chức đầu não của các nhà thầu thiết lập những mối quan hệ cá nhân với các giám đốc điều hành ngành dầu khí, khoản đãi họ tại các trại săn bắn sang trọng- và thắng thầu xây dựng hầu như tất cả các giàn khoan dầu khí ngoài khơi trên thế giới. .. Song mùa hè này, những anh – bạn - thân – tốt – bụng đã rớt đài. Tập đoàn dầu khí Shell đã thắng thầu hợp đồng chính cho một giàn khoan mới (cao hơn Tháp Cầu trục Chicago, nặng hơn gấp bốn lần so với cầu Brooklyn )- một thành công nhỏ.


The winning bidder arranged overseas fabrication of the rig, kept overhead costs low, and proposed a novel assembly procedure by which construction equipment was mounted on completed sections of the platform in order to speed the completion of the entire structure. The result was lower costs than those estimated and bid by traditional firms.

Of course, U.S. firms including A/E firms, contractors and construction managers are also competing in foreign countries. Their success or failure in the international arena may also affect their capacities and vitality to provide services in the domestic U.S. market.

Nhà thầu thắng thầu đã bố trí sản xuất giàn tại nước ngoài, giữ các chi phí chung ở mức thấp và đề xuất một quy trình lắp ráp mới mà theo đó, các thiết bị thi công được gắn vào các phần hoàn chỉnh của giàn để tăng tốc độ hoàn thành toàn bộ cấu trúc. Kết quả là chi phí thấp hơn nhiều so với các dự toán trong các hồ sơ thầu của các nhà thầu quen thuộc trong nước.

Tất nhiên, các công ty của Hoa Kỳ, kể cả các công ty tư vấn, nhà thầu và các nhà quản lý xây dựng cũng cạnh tranh ở thị trường nước ngoài. Sự thành công hay thất bại của họ ở thị trường quốc tế cũng có thể ảnh hưởng đên năng lực và sức mạnh của họ trong việc cung cấp các dịch vụ ở thị trường trong nước.

Contractor Financed Projects/Các dự án do nhà thầu bỏ vốn

Increasingly, some owners look to contractors or joint ventures as a resource to design, to build and to finance a constructed facility. For example, a utility company may seek a consortium consisting of a design/construct firm and a financial investment firm to assume total liability during construction and thereby eliminate the risks of cost escalation to ratepayers, stockholders and the management. On the other hand, a local sanitation district may seek such a consortium to provide private ownership for a proposed new sewage treatment plant. In the former case, the owner may take over the completed facility and service the debt on construction through long-term financing arrangements; in the latter case, the private owner may operate the completed facility and recover its investment through user fees. The activities of joint ventures among design, construction and investment firms are sometimes referred to as financial engineering.

This type of joint venture has become more important in the international construction market where aggressive contractors often win contracts by offering a more attractive financing package rather than superior technology. With a deepening shadow of international debts in recent years, many developing countries are not in a position to undertake any new project without contractor-backed financing. Thus, the contractors or joint ventures in overseas projects are forced into very risky positions if they intend to stay in the competition.

Ngày càng có nhiều chủ đầu tư trông chờ các nhà thầu hoặc liên doanh trở thành nguồn lực cho thiết kế, thi công và cung cấp tài chính cho các công trình xây dựng của họ. Ví dụ, một công ty về hạ tầng có thể tìm kiếm một liên doanh gồm tư vấn thiết kế/thi công và công ty đầu tư tài chính để chịu trách nhiệm tổng nợ trong thời gian xây dựng và do đó có thể hạn chế được các rủi ro về tăng giá đối với người nộp thuế, cổ đông và nhà quản lý. Bên cạnh đó, cơ quan phụ trách vấn đề vệ sinh của một quận có thể tìm kiếm một liên doanh tương tự làm chủ sở hữu một nhà máy xử lý nước thải đang trong dự án. Ở trường hợp thứ nhất, chủ đầu tư có thể nhận toàn bộ công trình hoàn thành và trả tiền nợ xây dựng công trình theo kế hoạch tài chính dài hạn, còn ở trường hợp thứ hai, chủ đầu tư tư nhân có thể vận hành công trình hoàn thành và thu hồi vốn đầu tư qua việc thu phí từ người sử dụng. Các hoạt động của các liên doanh giữa các công ty thiết kế, xây dựng và đầu tư đôi khi còn được gọi là kỹ xảo tài chính.

Loại hình liên doanh này ngày càng trở nên quan trọng trong thị trường xây dựng thế giới khi các nhà thầu bạo dạn thường thắng thầu do đề xuất gói tài chính hấp dẫn chứ không phải là do có kỹ thuật ưu việt. Trong bối cảnh ngày càng ngập sâu trong nợ nần quốc tế những năm gần đây, nhiều nước đang phát triển không thể thực hiện các dự án mới mà không trông mong vào tài chính của nhà thầu. Vì thế các nhà thầu hoặc liên doanh trong các dự án nước ngoài buộc phải chịu rủi ro nếu họ muốn giữ vị thế cạnh tranh,

Lean Construction/Xây dựng tiết kiệm

"Lean manufacturing" had a revolutionary effect on many industries, especially automotive assembly companies. Characteristics of this approach include:

  • Improvement in quality and reduction of waste everywhere. Rather than increasing costs, reducing defects and waste proved to improve quality and reduce costs.
  • Empowering workers to be responsible for satisfying customer needs. In construction, for example, craftsman should make sure their work satisfied the design intent.
  • Continuous improvement of processes involving the entire workforce.
Lean construction is intended to spread these practices within the construction industry. Of course, well managed construction projects already have many aspects of lean construction. For example, just-in-time delivery of materials is commonplace to avoid the waste of large inventory stockpiles. Green building projects attempt to re-use or recycle all construction wastes. But the systematic attention to continuous improvement and zero accidents and defects is new.

“ Sản xuất tiết kiệm” có một hiệu quả mang tính cách mạng đối với nhiều ngành công nghiệp, đặc biệt là với các nhà máy lắp ráp ô tô. Các đặc tính của phương pháp này là :

  • Cải tiến chất lượng và giảm phế thải mọi nơi. Thay vì tăng chi phí, người ta giảm các sai sót và phế thải để cải thiện chất lượng và giảm chi phí.
  • Trao cho người công nhân trách nhiệm phải thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Ví dụ như trong xây dựng, người thợ phải chắc chắn rằng công việc của anh ta đáp ứng ý đồ thiết kế.
  • Không ngừng cải tiến các quá trình tham gia vào toàn bộ nguồn nhân lực.
Lean construction is intended to spread these practices within the construction industry. Of course, well managed construction projects already have many aspects of lean construction. For example, just-in-time delivery of materials is commonplace to avoid the waste of large inventory stockpiles. Green building projects attempt to re-use or recycle all construction wastes. But the systematic attention to continuous improvement and zero accidents and defects is new.

Xây dựng tiết kiệm có mục tiêu là nhân rộng các nghiệp vụ này trong ngành xây dựng. Tất nhiên, các dự án xây dựng được quản lý tốt đã có nhiều đặc điểm của xây dựng tiết kiệm. Ví dụ như việc giao vật tư đúng thời gian là cách thông thường để tránh lãng phí do để tồn kho quá nhiều. Các dự án “nhà xanh” luôn cố gắng tái sử dụng hoặc tái chế tất cả các rác thải xây dựng. Tuy nhiên việc chú trọng một cách có hệ thống vào việc không ngừng cải tiến, phong trào ”Không tai nạn và sai sót” là điều hoàn toàn mới.
 
Last edited by a moderator:
H

Hugolina

Guest
1.9 The Role of Project Managers/Vai trò của các nhà quản lý dự án

In the project life cycle, the most influential factors affecting the outcome of the project often reside at the early stages. At this point, decisions should be based on competent economic evaluation with due consideration for adequate financing, the prevalent social and regulatory environment, and technological considerations. Architects and engineers might specialize in planning, in construction field management, or in operation, but as project managers, they must have some familiarity with all such aspects in order to understand properly their role and be able to make competent decisions.


Trong vòng đời dự án, các yếu tố có ảnh hưởng nhất đến kết quả của dự án thường nằm ở các giai đoạn đầu tiên. Ở điểm này, các quyết định cho dự án cần dựa trên sự đánh giá về kinh tế một cách phù hợp, cân nhắc cẩn thận về nguồn tài chính sao cho đủ, về môi trường pháp lý và xã hội và lựa chọn về công nghệ. Các kiến trúc sư và kỹ sư có thể chuyên về kế hoạch, quản lý công trường xây dựng hay vận hành, song với vai trò là quản lý dự án, thì họ phải nắm được tất cả các lĩnh vực đó để có thể hiểu rõ được vai trò của mình và có thể ra được những quyết định phù hợp.


Since the 1970's, many large-scale projects have run into serious problems of management, such as cost overruns and long schedule delays. Actually, the management of megaprojects or superprojects is not a practice peculiar to our time. Witness the construction of transcontinental railroads in the Civil War era and the construction of the Panama Canal at the turn of this century. Although the megaprojects of this generation may appear in greater frequency and present a new set of challenge, the problems are organizational rather than technical. As noted by Hardy Cross:


It is customary to think of engineering as a part of a trilogy, pure science, applied science and engineering. It needs emphasis that this trilogy is only one of a triad of trilogies into which engineering fits. This first is pure science, applied science and engineering; the second is economic theory, finance and engineering; and the third is social relations, industrial relations and engineering. Many engineering problems are as closely allied to social problems as they are to pure science.


As engineers advance professionally, they often spend as much or more time on planning, management and other economic or social problems as on the traditional engineering design and analysis problems which form the core of most educational programs. It is upon the ability of engineers to tackle all such problems that their performance will ultimately be judged.


Từ những năm 1970, nhiều dự án quy mô lớn mắc phải những vấn đề nghiêm trọng về công tac quản lý, ví dụ như chi phí phát sinh quá nhiều hoặc tiến độ dự án quá chậm. Trên thực tế, không phải đến thời chúng ta mới có việc quản lý các dự án siêu lớn. Minh chứng cho điều này là việc xây dựng các tuyến đường sắt xuyên lục địa thời Nội chiến và xây dựng Kênh đào Panama ở đầu thế kỷ XX. Mặc dù thời nay các dự án siêu lớn có thể nhiều hơn và gặp nhiều khó khăn mới, song vấn đề vẫn là do tổ chức, chứ không phải là do kỹ thuật. Như Hardy Cross đã nói:


Người ta thường cho rằng xây dựng là một phần trong một tổ hợp bộ ba gồm khoa học thuần túy, khoa học ứng dụng và xây dựng. Cần nhấn mạnh rằng tổ hợp này chỉ là một trong những tổ hợp bộ ba mà xây dựng là hợp phần. Tổ hợp thứ nhất gồm khoa học thuần túy, khoa học ứng dụng và xây dựng; tổ hợp thứ hai là lý thuyết kinh tế, tài chính và xây dựng; và tổ hợp thứ ba là các quan hệ xã hội, các quan hệ nghề nghiệp và xây dựng. Nhiều vấn đề về kỹ thuật có liên quan nhiều đến các vấn đề xã hội, cũng tương tự như liên quan đến khoa học thuần túy.


Vì kỹ sư là những người tiên phong về chuyên môn, họ thường dành nhiều thời gian cho công tác lập kế hoạch, quản lý và các vấn đề kinh tế và xã hội khác, cũng như cho thiết kế kỹ thuật theo kiểu truyền thống là phân thích các vấn đề tạo nên cốt lõi của các chương trình mang tính đào tạo nhất. Việc thực hiện công việc của kỹ sư sẽ được đánh giá qua khả năng giải quyết tất cả các vấn đề này.


The greatest stumbling block to effective management in construction is the inertia and historic divisions among planners, designers and constructors. While technical competence in design and innovation remains the foundation of engineering practice, the social, economic and organizational factors that are pervasive in influencing the success and failure of construction projects must also be dealt with effectively by design and construction organizations. Of course, engineers are not expected to know every detail of management techniques, but they must be knowledgeable enough to anticipate the problems of management so that they can work harmoniously with professionals in related fields to overcome the inertia and historic divisions.


Cản trở lớn nhất cho việc quản lý hiệu quả trong công tác xây dựng là sự trì trệ và sự bất đồng trong quá khứ trong đội ngũ kế hoạch, thiết kế và thi công. Trong khi năng lực kỹ thuật trong thiết kế và cải tiến vẫn là nền tảng cho thực tiễn xây dựng, các yếu tố về kinh tế, xã hội và tổ chức có ảnh hưởng rộng đến sự thành bại của các dự án xây dựng cũng phải được các đơn vị thiết kế và thi công xử lý một cách hiệu quả. Tất nhiên, không nhất thiết người kỹ sư phải nắm rõ mọi chi tiết về kỹ thuật quản lý, song họ phải có đủ kiến thức để lường trước được những vấn đề về quản lý, sao cho họ có thể cộng tác một cách hài hòa với các chuyên gia thuộc các lĩnh vực liên quan để có thể vượt qua sự trì trệ và các bất đồng.


Paradoxically, engineers who are creative in engineering design are often innovative in planning and management since both types of activities involve problem solving. In fact, they can reinforce each other if both are included in the education process, provided that creativity and innovation instead of routine practice are emphasized. A project manager who is well educated in the fundamental principles of engineering design and management can usefully apply such principles once he or she has acquired basic understanding of a new application area. A project manager who has been trained by rote learning for a specific type of project may merely gain one year of experience repeated twenty times even if he or she has been in the field for twenty years. A broadly educated project manager can reasonably hope to become a leader in the profession; a narrowly trained project manager is often relegated to the role of his or her first job level permanently.


Có một nghịch lý là các kỹ sư là những người sáng tạo trong thiết kế kỹ thuật, và cũng thường đổi mới trong việc lập kế hoạch và quản lý vì cả hai loại hoạt động đều tham gia giải quyết các vấn đề. Trên thực tế, hai hoạt động này có thể củng cố cho nhau nếu cùng nằm trong quá trình đào tạo, với điều kiện là tính sáng tạo và đổi mới thay cho việc thực hiện theo lối mòn, được nhấn mạnh. Một quản lý dự án được đào tạo tốt về các nguyên tắc cơ bản của thiết kế kỹ thuật và quản lý có thể áp dụng tốt các nguyên tắc đó khi anh ta có được các kiến thức cơ bản về một lĩnh vực ứng dụng mới. Một quản lý dự án đã được đào tạo bằng cách học vẹt riêng về loại dự án thì chỉ có thể tăng số thời gian kinh nghiệm theo năm cho dù có làm trong lĩnh vực đó cả hai chục năm. Một quản lý dự án được đào tạo kiến thức rộng có thể hy vọng trở thành nhà lãnh đạo trong nghề, một quản lý dự án được đào tạo ở phạm vi hẹp thì thường chỉ giữ mãi công việc mà anh ta được giao từ ngày đầu.


The owners have much at stake in selecting a competent project manager and in providing her or him with the authority to assume responsibility at various stages of the project regardless of the types of contractual agreements for implementing the project. Of course, the project manager must also possess the leadership quality and the ability to handle effectively intricate interpersonal relationships within an organization. The ultimate test of the education and experience of a project manager for construction lies in her or his ability to apply fundamental principles to solving problems in the new and unfamiliar situations which have become the hallmarks of the changing environment in the construction industry.


Chủ đầu tư có quyền chọn một quản lý dự án thích hợp và giao cho anh ta trách nhiệm ở các giai đoạn của dự án bất kể là loại thỏa thuận hợp đồng thực hiện dự án nào. Tất nhiên, người quản lý dự án cũng phải có năng lực lãnh đạo và khả năng xử lý hiệu quả các mối quan hệ rắc rối giữa các cá nhân trong một tổ chức. Thử nghiệm tốt nhất về học vấn và kinh nghiệm đối với một quản lý dự án xây dựng là năng lực của anh ta trong việc ứng dụng các nguyên tắc cơ bản để giải quyết các vấn đề trong các tình huống mới lạ, đã trở thành dấu hiệu cho việc thay đổi môi trường trong ngành xây dựng.


Hết Chương 1
 

quanghuy_tkt_139

Thành viên mới
Tham gia
23/6/08
Bài viết
2
Điểm thành tích
1
thanks Bro

thanks Bro. pac cho xin file này full được không? nếu có dịch TV rồi thì càng tốt! thanks.
 

Top