H
henry1891
Guest
Từ năm 1980, vấn đề nước uống bỗng trở thành đề tài về sức khỏe được quan tâm đặc biệt. Thứ nhất là do Chlor (hóa chất dùng để tiệt trùng) được chứng minh là chất dẫn xuất gây một số chứng bệnh ung thư như Chloroform (một loại Trihalomethane). Mùi hôi của Chlor trong nước không những khó uống mà còn làm da bị khô, gây ngứa ngáy... Thứ hai là các hóa chất từ các loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ, phân bón không tan trong nước, dần dần trở thành nguồn ô nhiễm môi sinh gây nguy hiểm cho tính mạng con người. Đó là cơ hội cho các nhà nghiên cứu về kỹ thuật lọc nước trở thành những ông chủ giàu có với hàng nghìn sản phẩm được tung ra thị trường.
Ở Châu Âu và Mỹ, người ta không còn uống các loại nước cung cấp qua các đường ống đến vòi nước trong nhà, bắt đầu tìm mua các loại nước trong chai, đã qua xử lý về kỹ thuật theo tiêu chuẩn qui định về tính hóa lý và vi sinh, hay gắn các bộ phận lọc nhỏ ở gia đình nhằm mục đích ngăn chặn Trihalomethane (THM), và khử mùi Chlorine còn lại trong nước bằng than hoạt tính.Hiện nay, nhiều kỹ thuật lọc nước từ cổ điển đến hiện đại đã được hình thành, tuy nhiên trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không đề cập kỹ đến những kỹ thuật lọc nước qui mô, công nghệ tổng hợp mà chỉ gói gọn trong những kỹ thuật đang được phổ cập trong “cuộc sống công nghiệp” của từng gia đình.
1- PHƯƠNG PHÁP LỌC BẰNG VẬT LÝ HAY CƠ HỌC (PHYSICAL FILTRATION)
Nhằm mục đích loại trừ các tạp chất hữu cơ, chất bẩn và vi sinh trong nước, một trong những phương pháp đã có từ xưa là dùng than, cát và sỏi trong một bể lắng hay nhiều bể lắng lọc liên hoàn. Phương pháp này còn được gọi là phương pháp tạo lắng thật chậm, có khi còn dùng quạt thổi gió hay màn mưa nhân tạo đưa O2 vào để lắng phèn, khử mùi và dần dần loại trừ các tạp chất lơ lửng trong nước.
Thiết bị này thường được dùng ở các nhà máy cần lượng nước lớn hay các trạm xử lý trung tâm, nhưng khá cồng kềnh và tạo dòng chảy chậm từ bể lắng sang bể sạch có khi kéo dài hàng trăm mét. Đây là phương pháp xử lý nước rất cơ bản và có giá thành thấp nhât. Người ta đã đúc kết rằng, nếu làm đúng kỹ thuật bằng phương pháp lọc chậm này thì hàm lượng TOD (*) giảm trên 90% và lượng vi khuẩn cũng có thể được tiệt trừ nhờ màng sinh học tự nhiên đạt đến mức 95 - 98%. Chính vì thế mà nhiều trung tâm xử lý nước lớn trên thế giới vẫn còn áp dụng phương pháp này kết hợp với xử lý bằng Chlor và than hoạt tính trong công đoạn sau (xem tài liệu phụ lục).
Trên thực tế, chúng tôi cũng đã áp dụng mô hình kết hợp này cho những khu vực có hàm lượng phèn, tạp chất hữu cơ trong nước cao như Gò Vấp, Thủ Đức và một số điểm khác tại Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian từ 21 ~ 45 ngày (hiện nay kỹ thuật đã được cải tiến để thời gian tạo màng sinh học tự nhiên còn 5 - 7 ngày). Khi màng sinh học tự nhiên hình thành thì khả năng ngăn chặn vi khuẩn, vi sinh đạt mức khá lý tưởng (giảm đến 92%) và hàm lượng phèn giảm được trên 75%. Điều đó làm tăng độ bền cho các công đoạn xử lý kế tiếp và tạo được một công suất lọc khá ổn định.Ở vùng quê ngày trước, người ta còn dùng cói, rơm rạ hay đay làm vật liệu lọc có tác dụng lọc các chất lơ lửng, phù sa khá hiệu quả. Phụ vào các công đoạn này, người ta còn sử dụng vôi để tiệt trùng, cân đối lại độ pH cho nước ở vùng chua và cả những hóa chất tạo lắng bằng keo tụ nhằm làm sạch nước nhanh hơn so với phương pháp lắng chậm.Nhiều dụng cụ xử lý nước ngày nay được thu nhỏ lại để người tiêu dùng có thể gắn vào nguồn nước máy ngay tại bếp bằng các loại ống lọc màng bằng sợi chỉ nhựa (PP cartridge) có độ lớn của lỗ lọc từ 1 mm (1/10.000 milimét) đến 10 - 50 mm.
Các loại màng (ống lọc) này còn được chia làm nhiều lớp hay nhiều tầng, trong đó có cả lớp (hay tầng) than hoạt tính để khử mùi hay thêm một lớp diệt khuẩn. Loại cartridge này rất thuận tiện trong sử dụng và thay thế, gọn nhẹ và không chiếm chỗ so với những phương pháp cổ điển, tuy nhiên vấn đề còn lại là giá cả của ống lọc và giá mua bộ lọc ban đầu khá đắt, đặc biệt tuổi thọ của ống lọc tùy thuộc vào chất lượng của nước (độ bẩn, tạp chất) và không xử lý triệt để được các hóa chất độc hại phát sinh từ nguồn nước hay các loại vi khuẩn gây bệnh (Faecal Bacteria), trừ những sản phẩm có pha các hoạt chất sát trùng đặc biệt. Điều đáng lưu ý là có nhà sản xuất máy lọc nước giới thiệu sản phẩm của họ có thể xử lý 7.000 - 18.000 lít /ống nhưng không hề nói rõ nước sử dụng là nước loại gì, độ bẩn, tạp chất và phèn bao nhiêu vì thế có nơi chỉ dùng được vài tuầnlà phải thay thế ống lọc khác.
Giá một ống lọc có khi lên đến 180.000đ - 500.000đ, trong khi giá máy mua ban đầu là 1,2 đến 2 triệu đồng, người mua hoàn toàn lệ thuộc vào người cung cấp, nếu muốn tiếp tục sử dụng.Hầu hết những sản phẩm này được sản xuất tại các nước tiên tiến như Mỹ (hay gần đây còn có sản phẩm của Đài Loan, Malaysia) và nguồn nước đưa vào máy là nước đã được xử lý tại các trạm cung cấp nước (đạt tiêu chuẩn về nước uống), hiệu quả cuối cùng khi qua các ống lọc gia đình chủ yếu là để khử mùi hôi của Chlore hay ngăn chặn các tạp chất còn sót lại như THM mà thôi. So với thu nhập bình quân của người ở Mỹ thì giá một ống lọc như vậy là không cao và họ có thể sử dụng lâu ngày hơn so với điều kiện sử dụng ở Việt Nam.Thực tế cho thấy đã có nhiều khách hàng vì không phân biệt được sự khác biệt này, nên sử dụng máy lọc được một thời gian ngắn lại phải trở về với phương pháp cổ truyền “đun sôi để nguội” !Hiện nay ở Mỹ còn có những ống siêu lọc (micro filter) bằng sợi theo cấu tạo ma trận với lỗ lọc 0,2 ~ 0,4 mm có khả năng ngăn chặn vi trùng, vi khuẩn khá tốt và ứng dụng nguyên lý thẩm thấu ngược (reverse osmosis).
Tuy nhiên cũng không chịu đựng nổi trước chất lượng nguồn nước tại Tp. Hồ Chí Minh, rất dễ bị tắt nghẽn và phải thay thế sau thời gian sử dụng 2 - 3 tháng (với lưu lượng 3.000 lít theo lý thuyết nhưng chúng tôi thử dùng thì thấy “tuổi thọ” không đến 1.000 lít, tức chỉ tương đương 1/3).Khác với loại ống lọc Cartridge kiểu Mỹ, Thụy Sĩ và Nhật Bản đã tung ra thị trường một loại ống lọc bằng sứ có pha Nitrate bạc để tiệt trùng. Kỹ thuật này được phát minh vào năm 1947 khi kỹ thuật tạo hình ống lọc sứ có lỗ thoát với độ lớn 0,2 - 0,4 micron được xác lập. Như chúng ta đều biết, vi trùng hay vi khuẩn có độ lớn bình quân từ 0,5 - 0,6 micron, vì vậy ống lọc này có thể ngăn chặn được chúng và để bảo đảm hơn, nhằm ngăn ngừa vi khuẩn phát triển len lõi vào bên trong ống lọc, họ đã trộn Nitrate bạc vào dung dịch sứ (trước khi nung) không để cho bạc có thể rơi rụng khi nước đi qua đồng thời phát huy hiệu quả sát trùng trực tiếp trong nước thay vì sử dụng các loại hóa chất Fluor, Iode hay Chlor có thể gây tác hại lâu dài khi không quản lý được nồng độ chặt chẽ.
Thêm vào đó, phần ruột của ống là một lớp thạch anh tẩm Nitrate bạc nhằm tránh hiện tượng vi trùng chen lẫn từ vòi uống (đầu ra) trở lại ống lọc (tái nhiễm khuẩn), bảo đảm nguồn nước đã xử lý không bị nhiễm khuẩn trở lại.Với ống lọc sứ pha Nitrate bạc, người ta có thể an tâm hơn và khá tiện dụng vì có thể vệ sinh ống lọc mỗi khi bị tắc nghẽn (do vi khuẩn hay chất bẩn bám đầy) thay vì phải bỏ đi hay thay thế ống lọc mới như loại Cartridge bằng sợi nhân tạo. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà sản xuất (Katadyn Thụy sĩ và Roki Nhật bản) thì ống lọc sứ sẽ mất tác dụng khi phần sứ bọc bên ngoài bị mòn sau 3 - 5 năm sử dụng.Về mặt thực tiển, khó có thể ứng dụng ống lọc này cho các hệ thống xử lý nước có qui mô lớn vì việc vệ sinh ống không thể thực hiện dễ dàng, và giá thành khá đắt so với các giải pháp khác nhưng với loại gia đình thì loại ống lọc này khá lý tưởng và đã được Tổ chức sức khỏe Thế giới (WHO) cung cấp cho các bệnh viện, trạm xá ở một số nước trong chương trình y tế cộng đồng.
(theo: http://vietloc.com)
Ở Châu Âu và Mỹ, người ta không còn uống các loại nước cung cấp qua các đường ống đến vòi nước trong nhà, bắt đầu tìm mua các loại nước trong chai, đã qua xử lý về kỹ thuật theo tiêu chuẩn qui định về tính hóa lý và vi sinh, hay gắn các bộ phận lọc nhỏ ở gia đình nhằm mục đích ngăn chặn Trihalomethane (THM), và khử mùi Chlorine còn lại trong nước bằng than hoạt tính.Hiện nay, nhiều kỹ thuật lọc nước từ cổ điển đến hiện đại đã được hình thành, tuy nhiên trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không đề cập kỹ đến những kỹ thuật lọc nước qui mô, công nghệ tổng hợp mà chỉ gói gọn trong những kỹ thuật đang được phổ cập trong “cuộc sống công nghiệp” của từng gia đình.
1- PHƯƠNG PHÁP LỌC BẰNG VẬT LÝ HAY CƠ HỌC (PHYSICAL FILTRATION)
Nhằm mục đích loại trừ các tạp chất hữu cơ, chất bẩn và vi sinh trong nước, một trong những phương pháp đã có từ xưa là dùng than, cát và sỏi trong một bể lắng hay nhiều bể lắng lọc liên hoàn. Phương pháp này còn được gọi là phương pháp tạo lắng thật chậm, có khi còn dùng quạt thổi gió hay màn mưa nhân tạo đưa O2 vào để lắng phèn, khử mùi và dần dần loại trừ các tạp chất lơ lửng trong nước.
Thiết bị này thường được dùng ở các nhà máy cần lượng nước lớn hay các trạm xử lý trung tâm, nhưng khá cồng kềnh và tạo dòng chảy chậm từ bể lắng sang bể sạch có khi kéo dài hàng trăm mét. Đây là phương pháp xử lý nước rất cơ bản và có giá thành thấp nhât. Người ta đã đúc kết rằng, nếu làm đúng kỹ thuật bằng phương pháp lọc chậm này thì hàm lượng TOD (*) giảm trên 90% và lượng vi khuẩn cũng có thể được tiệt trừ nhờ màng sinh học tự nhiên đạt đến mức 95 - 98%. Chính vì thế mà nhiều trung tâm xử lý nước lớn trên thế giới vẫn còn áp dụng phương pháp này kết hợp với xử lý bằng Chlor và than hoạt tính trong công đoạn sau (xem tài liệu phụ lục).
Trên thực tế, chúng tôi cũng đã áp dụng mô hình kết hợp này cho những khu vực có hàm lượng phèn, tạp chất hữu cơ trong nước cao như Gò Vấp, Thủ Đức và một số điểm khác tại Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian từ 21 ~ 45 ngày (hiện nay kỹ thuật đã được cải tiến để thời gian tạo màng sinh học tự nhiên còn 5 - 7 ngày). Khi màng sinh học tự nhiên hình thành thì khả năng ngăn chặn vi khuẩn, vi sinh đạt mức khá lý tưởng (giảm đến 92%) và hàm lượng phèn giảm được trên 75%. Điều đó làm tăng độ bền cho các công đoạn xử lý kế tiếp và tạo được một công suất lọc khá ổn định.Ở vùng quê ngày trước, người ta còn dùng cói, rơm rạ hay đay làm vật liệu lọc có tác dụng lọc các chất lơ lửng, phù sa khá hiệu quả. Phụ vào các công đoạn này, người ta còn sử dụng vôi để tiệt trùng, cân đối lại độ pH cho nước ở vùng chua và cả những hóa chất tạo lắng bằng keo tụ nhằm làm sạch nước nhanh hơn so với phương pháp lắng chậm.Nhiều dụng cụ xử lý nước ngày nay được thu nhỏ lại để người tiêu dùng có thể gắn vào nguồn nước máy ngay tại bếp bằng các loại ống lọc màng bằng sợi chỉ nhựa (PP cartridge) có độ lớn của lỗ lọc từ 1 mm (1/10.000 milimét) đến 10 - 50 mm.
Các loại màng (ống lọc) này còn được chia làm nhiều lớp hay nhiều tầng, trong đó có cả lớp (hay tầng) than hoạt tính để khử mùi hay thêm một lớp diệt khuẩn. Loại cartridge này rất thuận tiện trong sử dụng và thay thế, gọn nhẹ và không chiếm chỗ so với những phương pháp cổ điển, tuy nhiên vấn đề còn lại là giá cả của ống lọc và giá mua bộ lọc ban đầu khá đắt, đặc biệt tuổi thọ của ống lọc tùy thuộc vào chất lượng của nước (độ bẩn, tạp chất) và không xử lý triệt để được các hóa chất độc hại phát sinh từ nguồn nước hay các loại vi khuẩn gây bệnh (Faecal Bacteria), trừ những sản phẩm có pha các hoạt chất sát trùng đặc biệt. Điều đáng lưu ý là có nhà sản xuất máy lọc nước giới thiệu sản phẩm của họ có thể xử lý 7.000 - 18.000 lít /ống nhưng không hề nói rõ nước sử dụng là nước loại gì, độ bẩn, tạp chất và phèn bao nhiêu vì thế có nơi chỉ dùng được vài tuầnlà phải thay thế ống lọc khác.
Giá một ống lọc có khi lên đến 180.000đ - 500.000đ, trong khi giá máy mua ban đầu là 1,2 đến 2 triệu đồng, người mua hoàn toàn lệ thuộc vào người cung cấp, nếu muốn tiếp tục sử dụng.Hầu hết những sản phẩm này được sản xuất tại các nước tiên tiến như Mỹ (hay gần đây còn có sản phẩm của Đài Loan, Malaysia) và nguồn nước đưa vào máy là nước đã được xử lý tại các trạm cung cấp nước (đạt tiêu chuẩn về nước uống), hiệu quả cuối cùng khi qua các ống lọc gia đình chủ yếu là để khử mùi hôi của Chlore hay ngăn chặn các tạp chất còn sót lại như THM mà thôi. So với thu nhập bình quân của người ở Mỹ thì giá một ống lọc như vậy là không cao và họ có thể sử dụng lâu ngày hơn so với điều kiện sử dụng ở Việt Nam.Thực tế cho thấy đã có nhiều khách hàng vì không phân biệt được sự khác biệt này, nên sử dụng máy lọc được một thời gian ngắn lại phải trở về với phương pháp cổ truyền “đun sôi để nguội” !Hiện nay ở Mỹ còn có những ống siêu lọc (micro filter) bằng sợi theo cấu tạo ma trận với lỗ lọc 0,2 ~ 0,4 mm có khả năng ngăn chặn vi trùng, vi khuẩn khá tốt và ứng dụng nguyên lý thẩm thấu ngược (reverse osmosis).
Tuy nhiên cũng không chịu đựng nổi trước chất lượng nguồn nước tại Tp. Hồ Chí Minh, rất dễ bị tắt nghẽn và phải thay thế sau thời gian sử dụng 2 - 3 tháng (với lưu lượng 3.000 lít theo lý thuyết nhưng chúng tôi thử dùng thì thấy “tuổi thọ” không đến 1.000 lít, tức chỉ tương đương 1/3).Khác với loại ống lọc Cartridge kiểu Mỹ, Thụy Sĩ và Nhật Bản đã tung ra thị trường một loại ống lọc bằng sứ có pha Nitrate bạc để tiệt trùng. Kỹ thuật này được phát minh vào năm 1947 khi kỹ thuật tạo hình ống lọc sứ có lỗ thoát với độ lớn 0,2 - 0,4 micron được xác lập. Như chúng ta đều biết, vi trùng hay vi khuẩn có độ lớn bình quân từ 0,5 - 0,6 micron, vì vậy ống lọc này có thể ngăn chặn được chúng và để bảo đảm hơn, nhằm ngăn ngừa vi khuẩn phát triển len lõi vào bên trong ống lọc, họ đã trộn Nitrate bạc vào dung dịch sứ (trước khi nung) không để cho bạc có thể rơi rụng khi nước đi qua đồng thời phát huy hiệu quả sát trùng trực tiếp trong nước thay vì sử dụng các loại hóa chất Fluor, Iode hay Chlor có thể gây tác hại lâu dài khi không quản lý được nồng độ chặt chẽ.
Thêm vào đó, phần ruột của ống là một lớp thạch anh tẩm Nitrate bạc nhằm tránh hiện tượng vi trùng chen lẫn từ vòi uống (đầu ra) trở lại ống lọc (tái nhiễm khuẩn), bảo đảm nguồn nước đã xử lý không bị nhiễm khuẩn trở lại.Với ống lọc sứ pha Nitrate bạc, người ta có thể an tâm hơn và khá tiện dụng vì có thể vệ sinh ống lọc mỗi khi bị tắc nghẽn (do vi khuẩn hay chất bẩn bám đầy) thay vì phải bỏ đi hay thay thế ống lọc mới như loại Cartridge bằng sợi nhân tạo. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà sản xuất (Katadyn Thụy sĩ và Roki Nhật bản) thì ống lọc sứ sẽ mất tác dụng khi phần sứ bọc bên ngoài bị mòn sau 3 - 5 năm sử dụng.Về mặt thực tiển, khó có thể ứng dụng ống lọc này cho các hệ thống xử lý nước có qui mô lớn vì việc vệ sinh ống không thể thực hiện dễ dàng, và giá thành khá đắt so với các giải pháp khác nhưng với loại gia đình thì loại ống lọc này khá lý tưởng và đã được Tổ chức sức khỏe Thế giới (WHO) cung cấp cho các bệnh viện, trạm xá ở một số nước trong chương trình y tế cộng đồng.
(theo: http://vietloc.com)