Biên bản xác nhận khối lượng

  • Khởi xướng Khởi xướng khonggianmoi
  • Ngày gửi Ngày gửi
K

khonggianmoi

Guest
Công trình hiện nay mình đang thi công bên A chỉ làm biên bản xác nhận khối lượng hoàn thành trong giai đoạn xây lắp, vậy biên bản này có thay thế được biên bản nghiệm thu khối lượng hoàn thành trong giai đoạn xây lắp được không ? trong nghị định 209 và 49 mình không thấy laọi hình xác nhận này, vậy nó có tính pháp lý ha không? mong mọi người giúp đỡ !
 
NĐ 209, 49, TCVN 371:06 bác đọc rồi, em nghĩ: không cần bàn lại. Vì thế mà để thay thế BBNT thì không được.
Hầu hết, các công trình đều phải làm biên bản xác nhận khối lượng này. Có chữ ký của Giám sát và Kỹ thuật nhà thầu, và là cơ sở để tính giá thanh toán (trên cơ sở khối lượng), (vậy là có tính pháp lý rồi).:(
 
Công trình hiện nay mình đang thi công bên A chỉ làm biên bản xác nhận khối lượng hoàn thành trong giai đoạn xây lắp, vậy biên bản này có thay thế được biên bản nghiệm thu khối lượng hoàn thành trong giai đoạn xây lắp được không ? trong nghị định 209 và 49 mình không thấy laọi hình xác nhận này, vậy nó có tính pháp lý ha không? mong mọi người giúp đỡ !
Nếu biên bản xác nhận khối lượng hoàn thành bạn lập có ghi khối lượng xây lắp hoàn thành và xác nhận chất lượng của khối lượng xây lắp đã hoàn thành đó thì theo tôi là hợp pháp. Vì NĐ 49 chỉ nêu khi lập biên bản nghiệm thu công tác xây lắp hoàn thành phải nêu các mục theo yêu cầu.Trong biên bản bạn lập đã có hai nội dung chủ yếu là khối lượng và chất lượng của công tác xây lắp đó
 
Nếu biên bản xác nhận khối lượng hoàn thành bạn lập có ghi khối lượng xây lắp hoàn thành và xác nhận chất lượng của khối lượng xây lắp đã hoàn thành đó thì theo tôi là hợp pháp. Vì NĐ 49 chỉ nêu khi lập biên bản nghiệm thu công tác xây lắp hoàn thành phải nêu các mục theo yêu cầu.Trong biên bản bạn lập đã có hai nội dung chủ yếu là khối lượng và chất lượng của công tác xây lắp đó
progress.gif
 
Công trình hiện nay mình đang thi công bên A chỉ làm biên bản xác nhận khối lượng hoàn thành trong giai đoạn xây lắp, vậy biên bản này có thay thế được biên bản nghiệm thu khối lượng hoàn thành trong giai đoạn xây lắp được không ? trong nghị định 209 và 49 mình không thấy loại hình xác nhận này, vậy nó có tính pháp lý ha không? mong mọi người giúp đỡ !
. BB xác nhận KL hoàn thành xây lắp đó cũng là cơ sở để thanh toán ở các kỳ thanh toán. Nó không thể thay thế được BBNT khối lượng hoàn thành xây lắp, nhưng nó là cơ sở để nhà thầu ký BBNT KL hoàn thành xây lắp và lập hồ sơ thanh quyết toán. Nói một cách nôm na là nó giống bản thảo(bản mộc) ký sơ bộ làm cơ sở ký khối lượng và BBNT hoàn thành GDXL.
 
Công ty tôi làm cũng thế, nhưng đó làm thủ tục để tạm ứng tiền cho ĐVTC khi chưa thể nghiệm thu giai đoạn thôi. vì phần thô mà nghiệm thu đc thì chờ kết quả nén BT phải sau 28 ngày mà tiến độ thi công đang cần gấp, còn có pháp lý ko? thì đến nay tôi vẫn chưa thấy thanh tra, kiểm toán nào bắt lỗi cả.
 
Sau khi hoàn thành một giai đoạn xây lắp thì ta tiến hành nghiệm thu khối lượng hoàn thành để làm cơ sở thanh toán. Khối lượng để lập phiếu giá thanh toán phải lấy từ phụ lục của Biên bản nghiệm thu khối lượng hoàn thành xây lắp thì mới hợp pháp. Còn A chỉ lập biên bản xác nhận khối lượng hoàn thành cho nhà thầu thì chỉ có ý nghĩa làm cơ sở tạm ứng và sau này căn cứ vào đó cũng như đối chiếu với các hồ sơ tài liệu liên quan để nghiệm thu khối lượng hoàn thành giai đoạn xây lắp cho nhà thầu( Khối lượng xác nhận trong biên bản xác nhận... chưa chắc đã được nghiệm thu mà chỉ để làm cơ sở để nghiệm thu).
 
các Bác ai có mẫu của biên bản xác nhận khối lượng thi công không?cho em với.Em đang rất cần.cảm ơn các Pác
 
Theo tôi thấy các ý kiến trên đây đều đúng, tôi xin đóng góp thế này!
Chúng ta không thể kèm theo khối lượng cho từng công việc mà chỉ nên xác nhận tại các lần nghiệm thu giai đoạn xây dựng, kèm theo giai đoạn đó bản xác nhận khối lượng hoàn thành. Chất lượng thì đánh giá vào biên bản nghiệm thu giai đoạn.
Mong các anh chỉ chỉ bảo thêm
 
+ Cơ sở để xác nhận khối lượng XDCB hoàn thành của một giai đoạn xây lắp là BB nghiệm thu hoàn thanh giai đoạn;

- BB NTHTGĐ xây lắp (thường đánh giá về mặt kỹ thuật, chất lượng, phù hợp với tiêu chuẩn liên quan & hồ sơ thiết kế)
khi các thành phần tham gia nghiệm thu, chấp nhận nghiệm thu cho một giai đoạn xây lắp thì thống nhất và kết luận = BB trên hiện trường.

- Có đồng ý nghiệm thu thì mới làm BB xác nhận khối lượng
(vì một biên bản xác nhận KL của giai đoạn thi công, gồm tương đối nhiều hạng mục, thành phần các công việc con, bởi các BB nghiệm thu CVXD) nên không thể hoàn thành ngay trên công trường.

- Nhà thầu sau khi có BB NTHTGĐ. việc xác nhận KL là cơ sở để thanh, quyết toán
(nó được xem như một phụ lục bổ sung & hoàn thiện, luôn luôn đi kèm sau BB NTHTGĐ)
 
Last edited by a moderator:
Chỗ tôi (Chủ đầu tư) thì làm như thế này:
Trong Biên nghiệm hoàn thành bộ phận, giai đoạn xây dựng, ngòi các nội dung được quy địnnh tại ND209, đưa thêm nội dung khối lượng hoàn thành vào (nội dung này trong NĐ 209 và 49 không nêu) và thanh phần trực tiếp nghiệm thu có thêm Chủ đầu tư ký xác nhận vào biên bản. Có như vậy thì bên kho bạc mới chấp nhận.
 
+ Cơ sở để xác nhận khối lượng XDCB hoàn thành của một giai đoạn xây lắp là BB nghiệm thu hoàn thanh giai đoạn;

- BB NTHTGĐ xây lắp (thường đánh giá về mặt kỹ thuật, chất lượng, phù hợp với tiêu chuẩn liên quan & hồ sơ thiết kế)
khi các thành phần tham gia nghiệm thu, chấp nhận nghiệm thu cho một giai đoạn xây lắp thì thống nhất và kết luận = BB trên hiện trường.

- Có đồng ý nghiệm thu thì mới làm BB xác nhận khối lượng
(vì một biên bản xác nhận KL của giai đoạn thi công, gồm tương đối nhiều hạng mục, thành phần các công việc con, bởi các BB nghiệm thu CVXD) nên không thể hoàn thành ngay trên công trường.

- Nhà thầu sau khi có BB NTHTGĐ. việc xác nhận KL là cơ sở để thanh, quyết toán
(nó được xem như một phụ lục bổ sung & hoàn thiện, luôn luôn đi kèm sau BB NTHTGĐ)

không tán đồng với bác ở cái chỗ đánh dấu đỏ. Thời đại công nghệ, chuyện ở công trường có đầy đủ máy tính, máy in có gì lạ.
Kiểu như có một số ông cứ đòi BBNT phải viết tay mới là chuẩn vậy.
 
Chỗ tôi (Chủ đầu tư) thì làm như thế này:
Trong Biên nghiệm hoàn thành bộ phận, giai đoạn xây dựng, ngòi các nội dung được quy địnnh tại ND209, đưa thêm nội dung khối lượng hoàn thành vào (nội dung này trong NĐ 209 và 49 không nêu) và thanh phần trực tiếp nghiệm thu có thêm Chủ đầu tư ký xác nhận vào biên bản. Có như vậy thì bên kho bạc mới chấp nhận.
Bạn xem lại Quy trình cấp phát, thanh toán nguồn vốn ngân sách nhà nước được thực hiện qua hệ thống Kho bạc nhà nước nhé. Đơn vị mình cũng có đưa thêm Bảng khối lượng xây dựng hoàn thành vào trong Hồ sơ thanh toán. Nhưng chỉ làm theo thói quen thôi. Còn quy định hiện tại của Kho bạc Nhà nước là không cần bảng trên.
 
không tán đồng với bác ở cái chỗ đánh dấu đỏ. Thời đại công nghệ, chuyện ở công trường có đầy đủ máy tính, máy in có gì lạ.
Kiểu như có một số ông cứ đòi BBNT phải viết tay mới là chuẩn vậy.

Giai đoạn thi công xây dựng, có thể gồm nhiều các hạng mục, thành phần công việc.
-Nhà thầu làm BBXNKL, sau khi đã được nghiệm thu HTGĐ
TVGS xem ,kiểm tra đối chiếu giữa thiết kế & thực hiện có đúng với nội dung trong BB không
(mấy ông GS nào mà đưa BBXNKL của một giai đoạn thi công xây dựng dám ký ngay, trừ những giai đoạn đầu mục khối lượng ít & tập trung)
- Họ còn soát xét lại, xong mới chuyển giám sát A của CĐT.
(giai đoạn nào không mắc một ít giữa thiết kế & thi công, khối lượng phát sinh tăng, giảm. khối lượng đã thực hiện, khối lượng chưa thực hiện được vì những nguyên nhân khác .. như vướng mặt bằng chẳng hạn....)
 
Giai đoạn thi công xây dựng, có thể gồm nhiều các hạng mục, thành phần công việc.
-Nhà thầu làm BBXNKL, sau khi đã được nghiệm thu HTGĐ
TVGS xem ,kiểm tra đối chiếu giữa thiết kế & thực hiện có đúng với nội dung trong BB không
(mấy ông GS nào mà đưa BBXNKL của một giai đoạn thi công xây dựng dám ký ngay, trừ những giai đoạn đầu mục khối lượng ít & tập trung)
- Họ còn soát xét lại, xong mới chuyển giám sát A của CĐT.
(giai đoạn nào không mắc một ít giữa thiết kế & thi công, khối lượng phát sinh tăng, giảm. khối lượng đã thực hiện, khối lượng chưa thực hiện được vì những nguyên nhân khác .. như vướng mặt bằng chẳng hạn....)

Thật ra về khoản thời gian như vậy chỉ là suy luận thôi, chứ không có căn cứ pháp lý gì cụ thể cả phải không?
Cái nữa là, theo tôi giám sát A với TVGS chẳng qua cũng là một thôi, đâu có khái niệm nào phân biệt họ ra đâu.
 
Các bác tham khao xem thanh toán như vầy được không nhá!
 
Back
Top