chieusangxanhvn
Thành viên mới
- Tham gia
- 19/9/17
- Bài viết
- 2
- Điểm thành tích
- 1
- Tuổi
- 31
Đèn LED cung cấp tiết kiệm năng lượng đáng kể so với đèn xenon (HID) và các hệ thống chiếu sáng truyền thống khác.
Đèn cao áp LED vs HID: Nguồn với hiệu quả hệ thống
So sánh hiệu quả của đèn LED nói chung, đèn cao áp LED nói riêng với đèn truyền thống đòi hỏi một cách tiếp cận mới. HID, cũng như đèn truyền thống khác, thường được đánh giá dựa trên hiệu quả nguồn, được đo bằng đèn trần ở nhiệt độ phòng. Cách tiếp cận này không tính đến tác động của hiệu suất của các bóng đèn từ bộ đèn cao áp . Một phép đo phổ biến về hiệu quả nguồn là lumen trên mỗi watt - phản ánh lượng ánh sáng phát ra từ nguồn chia cho năng lượng cần thiết để vận hành. Một số đèn cao áp LED và HID, như natri áp suất cao (HPS) và kim loại halogenua (MH), rất hiệu quả (ví dụ, 100 lumens / watt hoặc cao hơn) khi chỉ xét đến hiệu quả nguồn. Tuy nhiên, hiệu suất nguồn không phản ánh chính xác đượn lượng ánh sáng thực được phân phối từ nguồn ánh sáng tới khu vực mục tiêu - chẳng hạn như khu đường phố hoặc bãi đậu xe.
Hiệu quả của hệ thống được đo cùng với đèn được lắp trong bộ đèn, dựa trên bao nhiêu lumens thực sự đến khu vực mục tiêu mà không chỉ đơn giản là xét có bao nhiêu lumens được phát ra từ đèn. Hiệu quả của hệ thống luôn thấp hơn hiệu suất nguồn do bị hao tổn trong quá trình lắp đặt và vận hành.
https://goo.gl/WCDvpB
https://goo.gl/Tw3wk9
Đèn cao áp LED vs HID: Nguồn với hiệu quả hệ thống
So sánh hiệu quả của đèn LED nói chung, đèn cao áp LED nói riêng với đèn truyền thống đòi hỏi một cách tiếp cận mới. HID, cũng như đèn truyền thống khác, thường được đánh giá dựa trên hiệu quả nguồn, được đo bằng đèn trần ở nhiệt độ phòng. Cách tiếp cận này không tính đến tác động của hiệu suất của các bóng đèn từ bộ đèn cao áp . Một phép đo phổ biến về hiệu quả nguồn là lumen trên mỗi watt - phản ánh lượng ánh sáng phát ra từ nguồn chia cho năng lượng cần thiết để vận hành. Một số đèn cao áp LED và HID, như natri áp suất cao (HPS) và kim loại halogenua (MH), rất hiệu quả (ví dụ, 100 lumens / watt hoặc cao hơn) khi chỉ xét đến hiệu quả nguồn. Tuy nhiên, hiệu suất nguồn không phản ánh chính xác đượn lượng ánh sáng thực được phân phối từ nguồn ánh sáng tới khu vực mục tiêu - chẳng hạn như khu đường phố hoặc bãi đậu xe.
Hiệu quả của hệ thống được đo cùng với đèn được lắp trong bộ đèn, dựa trên bao nhiêu lumens thực sự đến khu vực mục tiêu mà không chỉ đơn giản là xét có bao nhiêu lumens được phát ra từ đèn. Hiệu quả của hệ thống luôn thấp hơn hiệu suất nguồn do bị hao tổn trong quá trình lắp đặt và vận hành.
- Ánh sáng bị giam giữ- Bóng đèn đường truyền thống phát ra ánh sáng theo mọi hướng, đòi hỏi phải có bộ phận phản xạ bên trong để "phóng to" vùng chiếu, hướng tới khu vực mục tiêu. Tuy nhiên, không phải tất cả ánh sáng đều được điều hướng hiệu quả. Thông thường, 40% ánh sáng phát ra từ đèn bị mắc kẹt trong bộ đèn và không đến được vùng đích.
- Lớp vỏ và thấu kính - hầu như các loại đèn luôn luôn sử dụng một số loại kính quang học thứ cấp (như kính cường lực hoặc acrylic) để giúp lấy nét hoặc chuyển hướng ánh sáng và để bảo vệ đèn chiếu sáng đường phố khỏi tác động của môi trường. Những vật liệu này không cho phép ánh sáng đi qua với hiệu suất 100%, do đó hiệu quả của hệ thống giảm đi.
- Nhiệt độ hoạt động - Nhiều nguồn ánh sáng trở nên kém hiệu quả khi nhiệt độ hoạt động thay đổi. Do hiệu quả nguồn được đo ở mức tiêu chuẩn 25 ° C (hoặc khoảng 77 ° F), trong khi đó, hiệu quả hoạt động thực tế trong một phạm vi nhiệt độ ngoài trời có thể khác biệt đáng kể. Ví dụ, sản lượng ánh sáng của đèn cao áp LED trong một vài điều kiện nhiệt độ môi trường bất thường (TJ) khá cao (ví dụ: TJ = 75 ° C) có thể thấp hơn 10-15% khi được đo tại TJ = 25 ° C.
https://goo.gl/WCDvpB
https://goo.gl/Tw3wk9