khanhsvxd
Thành viên rất triển vọng
- Tham gia
- 8/10/09
- Bài viết
- 20
- Điểm tích cực
- 8
- Điểm thành tích
- 3
- Tuổi
- 36
Chào các thành viên trong diễn đàn và ban Quản trị. Chúc mừng năm mới 2015 đến tất cả các thành viên.
Tôi cũng như rất nhiều người đang băn khoăn trước khối lượng phát sinh, mặt dù có nhiều topic cho chủ đề này và cũng có nhiều ý kiến bàn thảo. Song mỗi người cũng có những quan điểm riêng. (tôi cũng đã tham khảo bài viết của thầy Đinh Đăng Quang, Nguyễn Thế Anh, Naat...)
Hôm nay tôi lập topic này, để mong mọi người chia sẻ nỗi băn khoăn cùng tôi.
Trước hết mình chỉ bàn đến những dự án có vốn nhà nước >30% trong TMĐT thôi (những vốn khác chưa bàn đến). Như vậy các văn bản chi phối chủ yếu đến khối lượng phát sinh này là:
- Nghị định 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 (trước ngày 15/8/2014)
- Nghị đinh 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 (sau ngày 15/8/2014)
- Nghị định 48/2010/NĐ-CP ngày 07/5/2010
- Thông tư 08/2010/TT-BXD ngày 29/7/2010
- Thông tư số 19/2011/tt-BTC ngày 14/2/2011
Mình chỉ xét đến hợp đồng theo đơn giá (đơn giá cố định và đơn giá điều chỉnh), điều tôi băn khoăn là: "thế nào là khối lượng phát sinh cho hợp đồng theo đơn giá" và "khối lượng nằm ngoài phạm vi hợp đồng và khối lượng nằm ngoài phạm vi thiết kế có khác gì nhau không?".
Nếu theo các văn bản trên tôi đọc thì thấy rằng, khối lượng phát sinh chỉ xảy ra khi thay đổi, điều chỉnh hoặc bổ sung thiết kế, còn những khối lượng nằm trong thiết kế được duyệt thì không được gọi là khối lượng phát sinh.
Ví dụ: Theo thiết kế và hợp đồng ký kết có 4 cầu thang (CT1, CT2, CT3, CT4), nếu phát sinh thêm 1 cái nữa (CT5) thì CT5 được tính phát sinh. Còn nếu trường hợp thiết kế là 4 cầu thang (CT1, CT2, CT3, CT4), nhưng người bóc dự toán tính thiếu chỉ có 3 cái thôi (CT1, CT2, CT3), dẫn đến mời thầu và ký kết hợp đồng cũng thiếu. Thực tế thi công là 4 cầu thang, như vậy cầu thang CT4 không được tính phát sinh. Tuy nhiên, vẫn được thanh toán theo khối lượng thực tế nghiệm thu (tức là thanh toán 4 cái cầu thang).
Vấn đề tôi muốn nói đến ở ví dụ trên đó là, nếu là khối lượng phát sinh thì phải làm đầy đủ các thủ tục như: bổ sung thiết kế, lập dự toán phát sinh, phê duyệt dự toán phát sinh, ký phụ lục hợp đồng bổ sung (Điều 52 nghị định 85/2009 và điều 16 thông tư 19/2011). Còn nếu không phải là khối lượng phát sinh thì thanh toán theo khối lượng thực tế, không cần các thủ tục trên (phức tạp) (điều 35 khoản b Nghị định 48/2010, điều 3 khoản 2 thông tư 08/2010, khoản 1.3.3 điều 16 TT19/2011). Tôi hiểu như thế có đúng không?
Còn vấn đề khối lượng nằm ngoài phạm vi hợp đồng và khối lượng nằm ngoài phạm vi thiết kế có khác gì nhau không, cái này tôi chưa tìm được văn bản nào định nghĩa, mong mọi người chỉ giúp.
Tôi cũng như rất nhiều người đang băn khoăn trước khối lượng phát sinh, mặt dù có nhiều topic cho chủ đề này và cũng có nhiều ý kiến bàn thảo. Song mỗi người cũng có những quan điểm riêng. (tôi cũng đã tham khảo bài viết của thầy Đinh Đăng Quang, Nguyễn Thế Anh, Naat...)
Hôm nay tôi lập topic này, để mong mọi người chia sẻ nỗi băn khoăn cùng tôi.
Trước hết mình chỉ bàn đến những dự án có vốn nhà nước >30% trong TMĐT thôi (những vốn khác chưa bàn đến). Như vậy các văn bản chi phối chủ yếu đến khối lượng phát sinh này là:
- Nghị định 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 (trước ngày 15/8/2014)
- Nghị đinh 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 (sau ngày 15/8/2014)
- Nghị định 48/2010/NĐ-CP ngày 07/5/2010
- Thông tư 08/2010/TT-BXD ngày 29/7/2010
- Thông tư số 19/2011/tt-BTC ngày 14/2/2011
Mình chỉ xét đến hợp đồng theo đơn giá (đơn giá cố định và đơn giá điều chỉnh), điều tôi băn khoăn là: "thế nào là khối lượng phát sinh cho hợp đồng theo đơn giá" và "khối lượng nằm ngoài phạm vi hợp đồng và khối lượng nằm ngoài phạm vi thiết kế có khác gì nhau không?".
Nếu theo các văn bản trên tôi đọc thì thấy rằng, khối lượng phát sinh chỉ xảy ra khi thay đổi, điều chỉnh hoặc bổ sung thiết kế, còn những khối lượng nằm trong thiết kế được duyệt thì không được gọi là khối lượng phát sinh.
Ví dụ: Theo thiết kế và hợp đồng ký kết có 4 cầu thang (CT1, CT2, CT3, CT4), nếu phát sinh thêm 1 cái nữa (CT5) thì CT5 được tính phát sinh. Còn nếu trường hợp thiết kế là 4 cầu thang (CT1, CT2, CT3, CT4), nhưng người bóc dự toán tính thiếu chỉ có 3 cái thôi (CT1, CT2, CT3), dẫn đến mời thầu và ký kết hợp đồng cũng thiếu. Thực tế thi công là 4 cầu thang, như vậy cầu thang CT4 không được tính phát sinh. Tuy nhiên, vẫn được thanh toán theo khối lượng thực tế nghiệm thu (tức là thanh toán 4 cái cầu thang).
Vấn đề tôi muốn nói đến ở ví dụ trên đó là, nếu là khối lượng phát sinh thì phải làm đầy đủ các thủ tục như: bổ sung thiết kế, lập dự toán phát sinh, phê duyệt dự toán phát sinh, ký phụ lục hợp đồng bổ sung (Điều 52 nghị định 85/2009 và điều 16 thông tư 19/2011). Còn nếu không phải là khối lượng phát sinh thì thanh toán theo khối lượng thực tế, không cần các thủ tục trên (phức tạp) (điều 35 khoản b Nghị định 48/2010, điều 3 khoản 2 thông tư 08/2010, khoản 1.3.3 điều 16 TT19/2011). Tôi hiểu như thế có đúng không?
Còn vấn đề khối lượng nằm ngoài phạm vi hợp đồng và khối lượng nằm ngoài phạm vi thiết kế có khác gì nhau không, cái này tôi chưa tìm được văn bản nào định nghĩa, mong mọi người chỉ giúp.