Lương tối thiểu hay lương cơ bản

  • Khởi xướng Khởi xướng cu ba
  • Ngày gửi Ngày gửi
C

cu ba

Guest
Mọi người xin cho hỏi:
Tôi là kỹ sư bậc 1/8, đang làm cho một công ty xây dựng nhà nước.
Tôi muốn biết tiền đóng BHXH, BHYT là 25% của lương tối thiểu hay của lương cơ bản (2,34 x lương tối thiểu)?

- Nếu công ty của tôi có trụ sở tại nội thành Hà Nội nhưng tôi lại đang đi thi công ở ngoại thành hà nội thì lương tối thiểu là 800k hay 740k?

- Tôi muốn đi học cao học (học ban ngày) nhưng muốn xin vẫn thuộc biên chế công ty, như vây tôi phải đóng toàn bộ tiền BHXH và BHYT phải vậy không?
 
Last edited by a moderator:
- Tiền đóng BHYT, BHXH là 25% lương cơ bản, tức là 2,34 x lương tối thiểu. Tức là: 2.34*740000*25%
- Nếu công ty của bạn có trụ sở tại Hà Nội thì lương tối thiểu của bạn là 800k vì công ty tính lương theo nơi mà công ty đóng. Tuy nhiên, cũng có thể, công ty bạn có những phụ cấp khác và tính lương cơ bản là 740k. Cái này tùy quy định của công ty.
- Nếu bạn đi học cao học, đối tượng là cán bộ các công ty nhà nước, bạn đươc giảm 50% học phí. Nếu công ty cho bạn đi học theo chế độ công ty cử đi thì công ty sẽ nộp BHYT, BHXH cho bạn, còn nếu bạn đi học và xin thuộc biên chế công ty thì bạn phải nộp toàn bộ. Mình nghĩ bạn nên xin công ty hỗ trợ theo kiểu đôi bên cùng có lợi vì bạn chỉ học có 1 buổi thôi mà, như thế vấn đề TC không trở thành gánh nặng cho bạn khi muốn học lên.
Chúc bạn thành công.
Thân!
 
Theo thông tư số 23 /2008/TT-BLĐTBXH , ngày 20/10/2008 của Bộ lao động thương binh và xã hội hướng dẫn thì mức lương tối thiểu để tính BHXH cho người lao động tại các công ty nhà nước áp dụng theo điều 1 nghị định số 166/2007/NĐ-CP là 540.000 đồng.
Việc đi học phụ thuộc vào kế hoạch đào tạo của Công ty, nếu bạn đi học nằm ngoài kế hoạch đào tạo của công ty thì có nghĩa là bạn đang gửi bảo hiểm tại công ty của bạn và bạn phải đóng 100% chi phí BHXH.
 
Tôi muốn học Cao học quá! Nhưng không biết Công ty có chấp thuận cho tôi vẫn thuộc Biên chế công ty không? Nếu không được có lẽ tôi sẽ xin thôi việc ở Cty đó.
 
Tôi vừa kết thúc khóa học Quản lý nhà nước và viết tiểu luận cuối khóa. Nói về quản lý nhà nước đối với xây dựng thì...thôi ôi nhiều vấn đề lắm, hiểu ko rõ vấn đề viết không ra hồn. Tôi cũng mới làm ở Nhà nước và mới ra trường nên ko biết chọn chủ đề gì. May quá xưa nay làm dự toán nên cũng biết sơ qua về tiền lương hiện nay.

Do vậy tôi chọn chủ đề là :Nhà nước với vấn đề tiền lương công chức . Nhân bài viết của bác cu ba mời mọi người đọc thử nhé. Hy vọng cũng có ý nghĩa và được mọi người góp ý thì hay quá. Còn vấn đề của bác cu ba bác tìm đọc thông tin trong các mục tài liệu tham khảo của tôi (các Thông tư và NĐ về tiền lương) bác sẽ hiểu bản chất của vấn đề. Chứ có câu trả lời...chắc như đinh đóng cột chắc ko thể có. Vì không ai "vững" như đinh, và không pháp luật nào "chắc" như cột.

Hì....chúc một ngày như ý!

Trong những năm qua, để nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước có điều kiện nâng cao trình độ, kỹ năng và khả năng xử lý giải quyết nhanh, hiệu quả và hợp pháp các vấn đề nảy sinh trong hoạt động quản lý nhà nước được giao trong hoạt động công vụ. Chính phủ đã ban hành Nghị định quy định việc cử cán bộ, công chức tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành quản lý hành chính nhà nước tại các cơ sở đào tạo như: Trường chính trị các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Học viện Hành chính.
Tôi rất may mắn được cơ quan cử đi học lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước ngạch chuyên viên khóa 03 năm 2008 tại trường Cán bộ thành phố Hồ Chí Minh. Kết thúc khóa học đã đem lại cho tôi nhiều kiến thức bổ ích để làm việc tốt hơn tại cơ quan, khả năng vận dụng kiến thức lý luận vào điều kiện thực tiển của hoạt động quản lý nhà nước của tôi được nâng cao. Từ những kiến thức đã học giúp tôi đưa ra phương hướng giải quyết cũng như thụ lý, tham mưu cho lãnh đạo các vụ việc thực sự phù hợp với điều kiện thể chế, phong tục tập quán Việt Nam. Khóa học đã hệ thống cho tôi những cơ sở lý luận và pháp lý rất quý giá để tôi thực thi quản lý nhà nước trong chức năng và nhiệm vụ của mình được tốt hơn, góp phần nhỏ bé của mình vào xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp hơn.
Một trong những chuyên đề đã được học, tôi rất thích thú và không ít băn khoăn đó là Quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động, việc làm, tiền lương và bảo trợ xã hội. Trong đó tôi có nhiều trăn trở về vấn đề tiền lương. Mỗi công chức thực thi quản lý nhà nước với ngành và chức năng nhiệm vụ khác nhau nhưng đều có chung một điểm là lĩnh lương nhà nước. Và tiền lương thật sự ảnh hưởng không nhỏ đến công chức, và cũng vì cuộc sống “cơm, áo, gạo, tiền” mà nhiều công chức đã thái hóa về đạo đức, tham nhũng, tham ô ngày càng phức tạp và ảnh hưởng không nhỏ đến bộ máy nhà nước. Do vậy tôi chọn chủ đề nhà nước với vấn đề tiền lương công chức để viết tiểu luận cuối khóa.Dưới góc độ một người thực thi quản lý hành chính nhà nước, tôi xin nêu ra những thực trạng của vấn đề, từ ấy phân tích trên cơ sở lý luận và pháp lý để đề xuất và kiến nghị nhằm vấn đề trên ngày càng được lưu tâm nhiều hơn và có giải pháp thực sự hữu hiệu. Với kinh nghiệm và trình độ còn hạn chế, bài tiểu luận sẽ còn nhiều thiếu sót mong quý thầy cô góp ý cho tôi hoàn chỉnh tiểu luận cũng như giúp tôi hiểu thấu đáo hơn về vấn đề này.
Qua khóa học tôi thật sự ấn tượng tốt về trường, từ cơ sở vật chất đến nội dung bài học và nhất là các thầy-cô giáo. Nội dung từng bài học và cả chương trình bao hàm nhiều vấn đề để học viên nâng cao kiến thức và vận dụng trong công tác. Thầy-cô giáo rất nghiêm túc và có nhiều nhiệt huyết để truyền đạt kiến thức cho học viên. Chúc trường ngày càng phát triển hơn và thầy-cô thật nhiều sức khỏe.
Chân thành cảm ơn quý thầy-cô rất nhiều!
1. Thực trạng của vấn đề:
Vấn đề tiền lương của cán bộ công chức hiện nay có một thực trạng hết sức ảm đạm mà xưa nay báo chí cũng như nhiều cán bộ công chức đã giải bày trong các Hội nghị, diễn đàn... Thực trạng này được thu gọn trong một câu mà người cán bộ công chức nào cũng trăn trỡ : “Lương Không Đủ Sống!”.
Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến một thực trạng như vậy? Và nó để lại những hậu quả gì cho cán bộ công chức cũng như hệ thống đội ngũ cán bộ của nước ta hiện nay? Cũng như những hiện tượng xấu trong xã hội và hệ thống chính trị. Để trả lời cho những câu hỏi ấy chúng ta đi phân tích những luận điểm sau:
1.1. Chế độ tiền lương:
Trước khi đến với thực trạng tiền lương công chức hiện nay, ta hãy tìm hiểu đôi nét về chế độ tiền lương Việt Nam hiện nay nói chung và đối với công chức nói riêng. Theo Bộ LĐ-TB&XH, chế độ tiền lương Việt Nam chia làm hai dạng: thang lương và bảng lương. Thang lương áp dụng với công nhân kỹ thuật trực tiếp sản xuất. Bảng lương áp dụng với các nghề công nhân không xác định được tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật và tất cả các viên chức (Đảng, đoàn thể, hành chính, sự nghiệp, lực lượng vũ trang và viên chức trong doanh nghiệp). Nhà nước ban hành một mức lương tối thiểu áp dụng chung cho các khu vực (trừ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Mức này được tính toán trên một số yếu tố khoa học với mục đích chính là đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động. Cán bộ công chức (gọi tắt tất cả các viên chức) được hưởng lương theo mức lương tối thiểu nhân với một hệ số nhất định. Hệ số này được tính theo hai chỉ số là độ phức tạp lao động và điều kiện lao động. Các chỉ số trên hình thành từ những chỉ số phụ, cụ thể như trình độ đào tạo, thời gian để thạo việc, độ nhạy bén... hay trách nhiệm với kết quả công việc, với tính mạng con người, với đối nội đối ngoại... Lực lượng vũ trang được xác định lương theo cấp hàm. Các hệ số lại chia theo bốn khu vực: Cán bộ do dân cử, bầu cử có 10 hệ số mức lương; thấp nhất là 4,3 và cao nhất là 13 (tổng bí thư và chủ tịch nước). Viên chức hành chính sự nghiệp có 56 hệ số từ 1,48 đến 9,33. Viên chức thừa hành phục vụ (quản lý doanh nghiệp) có 32 hệ số từ 1 đến 3,11. Công nhân doanh nghiệp có 66 hệ số lương từ 1 đến 5,22.
Theo Nghị định 166/NĐ-CP của chính phủ ngày 16/11/2007 thì mức lương tối thiểu hiện nay là 540 000 đồng/tháng. Mức lương tối thiểu nhân với hệ số sẽ ra một con số lương nhất định. Con số này là mức lương bậc 1. Mỗi cán bộ công chức sẽ có một thời gian làm việc khác nhau nên họ lại được hưởng theo bậc lương tăng dần gọi là bậc lương thâm niên. Có bao nhiêu bậc và bao nhiêu năm thì tăng một bậc lại là câu chuyện của từng ngành. Mỗi ngành chia làm nhiều ngạch công chức (ngạch là bảng tiêu chuẩn về chức vụ và cấp chuyên môn, nghiệp vụ trong ngành đó). Ngạch cao nhất có 16 bậc lương và thấp nhất có bảy bậc. Thời gian nâng bậc là hai năm với ngạch có độ phức tạp thấp và 3-4 năm với ngạch có độ phức tạp cao. Cán bộ lãnh đạo được hưởng thêm phụ cấp chức vụ. Toàn bộ hệ thống bảng lương công chức có 21 ngành chia ra 196 ngạch lương tương ứng với 196 ngạch công chức. Ngoài ra còn có một bảng lương riêng dành cho chuyên gia cao cấp, chia làm ba bậc để áp dụng với những tài năng chính trị, kinh tế, hành chính, khoa học kỹ thuật, giáo dục, y tế, văn hóa nghệ thuật. Trong khu vực sản xuất kinh doanh thì chia ra hai dạng: công nhân và viên chức doanh nghiệp. Họ được chia lương theo 21 thang lương và 24 bảng lương. Có bảng lương dành riêng cho các nghệ nhân.
Với một chế độ tiền lương như vậy chúng ta dễ dàng nhận thấy sự phức tạp của nó và từ đó phát sinh những bất hợp lý, những điểm bất cập chính là nguyên nhân làm cho đồng lương của cán bộ công chức eo hẹp lại càng eo hẹp hơn với những người mới bắt đầu đi làm. Từ một thể chế như trên ta có cái nhìn chung về lương công chức như sau:
1.2. Đồng lương công chức:
Có một hiển nhiên đáng buồn là khi có ai đó hỏi về lương của một cán bộ công chức thì bất kể người công chức nào cũng trả lời đại ý là : “ ôi…lương công chức mà! Ba cọc ba đồng!”. Tại sao một cán bộ công chức lại có thể “chê” một chế độ tiền lương của Nhà nước như vậy, hẳn nhiên người công chức ấy rất bất xúc và cảm thấy chật vật trong cuộc sống với đồng lương hằng tháng của họ. Để hiểu rõ nổi bất xúc cũng như đánh giá một cách khách quan cuộc sống xã hội, chúng ta phân tích đồng lương của công chức từ một chế độ tiền lương và mức sống xã hội xem như thế nào.
Với cách tính và một chế độ tiền lương như trên thì hầu hết cán bộ công chức nhận lương rất thấp, trung bình nằm trong khoảng 1.000.000 - 2.500.000 đồng/tháng. Với thời buổi kinh tế như hiện nay, giá cả tăng cao chóng mặt, tình hình khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thử hỏi với số tiền lương như vậy có đảm bảo được cuộc sống của các công chức? Câu trả lời thuyết phục nhất chính là những câu trả lời từ thực tế (Nguồn chủ yếu từ báo Tuổi trẻ, báo in và báo điện tử). Chẳng hạn như trường hợp của một bác sĩ, làm việc ở một cơ quan của Nhà nước đến nay là 11 năm bảy tháng nhưng hiện tại lương cơ bản hằng tháng chỉ có 1.698.500 đồng. Nếu tính cả phụ cấp thì xấp xỉ 2,2 triệu đồng/tháng. Trong khi đó vị bác sĩ đó phải gánh các khoản chiết trừ và chi phí cố định (ở mức chi dè sẻn) như sau:
- Tiền ăn: 850.000 đồng
- Tiền điện, nước: 170.000 đồng
- Tiền chất đốt: 80.000 đồng
- Tiền xăng xe, đi lại: 250.000 đồng
- Tiền phí điện thoại cố định: 100.000 đồng
- Tiền phí điện thoại di động: 200.000 đồng
- Tiền xà phòng tắm, giặt, dầu gội, kem đánh răng: 50.000 đồng
- Tiền quần áo, giày dép...: 100.000 đồng
- BHXH, BHYT, công đoàn phí, đảng phí: 120.000 đồng
- Các khoản phí: vệ sinh, đổ rác, an ninh trật tự khu phố: 20.000 đồng.
Như vậy, chỉ tính phần “cứng”, mỗi tháng bác sĩ đó tiêu tốn mất 1.940.000 đồng, chưa kể các khoản đóng góp đột xuất nhưng lại rất thường xuyên ở cơ quan và ở khu phố. Tính ra mỗi tháng chỉ còn nhiều nhất là 260.000 đồng để phòng khi phải sửa chữa xe cộ hoặc các sự cố đột xuất khác và phục vụ cho việc giao tế như thăm người ốm, cưới hỏi, sinh nhật, tang ma. Cuối cùng, chẳng để được đồng nào để dự phòng cho những lúc ốm đau, bệnh tật!
Một trường hợp khác là lương của một công chức ngành thống kê ở Biên Hòa có thâm niên 12 năm công tác chỉ có 1,8 triệu đồng/tháng (lương cơ bản 1.369.000 đồng cộng phụ cấp xăng xe 100.000 đồng, ăn trưa 300.000 ( đã trừ BHXH, BHYT, công đoàn, Đảng phí). Thu nhập của người vợ được 2,5 triệu đồng/tháng. Gia đình có 2 đứa con nhỏ, lớn 6 tuổi, nhỏ 2 tuổi. Như vậy chỉ có 4,3 triệu đồng để nuôi sống 4 con người và nhất là họ phải nuôi hai đứa con còn nhỏ như vậy!
Một công chức khác ở Cà Mau tính đến nay đã 6 năm công tác, có hai bằng đại học: đại học kinh tế và đại học thông tin nhưng lương cũng chỉ có 1.429.000 đồng/tháng. Hàng tháng phải chi:
- Tiền xăng: 250.000 đồng.
- Tiền ăn sáng uống cà phê với đồng nghiệp: 200.000 đồng
- Tiền thuê nhà: 400.000 đồng
- Tiền điện, nước: 180.000 đồng
- Tiền ăn cơm 600.000 đồng
- Tiền điện thoại di động: 100.000 đồng.
Tất cả: 1.730.000 đồng/tháng. Coi như "âm" 301.000 đồng. Chưa kể các khoản cưới xin, đám giỗ, ma chay...
Để xoay sở, công chức đó phải về quê xin tiền bố mẹ! Ngoài ra thỉnh thoảng công chức đó cũng đi dạy kèm, làm công việc bán thời gian... mỗi tháng khoảng 300.000 đồng để tăng thu nhập. Đây là những lời tâm sự của công chức đó: “Tính ra chi phí để học 2 bằng đại học như tôi không phải nhỏ, cha mẹ tôi phải còng lưng trên đồng ruộng (bây giờ là vuông tôm) để kiếm từng đồng cho tôi ăn học. Vậy mà đến nay tôi vẫn phải ngửa tay xin tiền, tôi không đành lòng, thế nhưng có cách nào khác hơn ?”(Nguồn: tuoitre online).
Lương của một cử nhân kinh tế làm việc trong một cơ quan quản lý đã 11 năm 6 tháng cũng chẳng khá hơn gì: với mức lương chưa trừ các khoản BHXH, BHYT....là 1.801.500 đồng (thu nhập sau khi trừ 8% là 1.657.380đ). Hiện đã có vợ và 1 con, mức lương của người vợ làm ngòai quốc doanh có khá hơn một chút (2.100.000 đồng/tháng không bao gồm các khoản BHXH, BHYT). Vậy cả nhà một tháng thu nhập 3.757.380 đồng. Trong khi đó phải có đủ thứ để chi:
- Tiền ăn: 1.100.000 đồng
- Tiền điện, nước: 200.000 đồng
- Tiền chất đốt: 80.000 đồng
- Tiền xăng xe, đi lại: 400.000 đồng (ở xa nơi đi làm 7 km)
- Tiền phí điện thoại cố định: 200.000 đồng
- Tiền xà phòng tắm, giặt, dầu gội, kem đánh răng: 170.000 đồng
- Tiền quần áo, giày dép 200.000 đồng
- Các khoản phí: vệ sinh, đổ rác, an ninh trật tự khu phố: 70.000 đồng.
- Tiền thuê nhà : 500.000 đồng
- Tiền học cho con : 600.000 đồng
- Tiền sữa loại thường cho con : 200.000 đồng
- Khoản còn lại là 37.380 đồng!
Đó là chưa kể ốm đau, bệnh tật, giao tế bạn bè, thân hữu…
Trên đây chỉ là một số trường hợp mà thôi và đó điều là những trường hợp có thâm niên cả. Đối với những công chức mới vào nghề thì như thế nào? Với những đồng lương còn thấp hơn thế liệu làm sao đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của họ nói chi đến mua nhà, lấy vợ, sinh con…!Qua những trường hợp như vậy cho chúng ta thấy một thực trạng hết sức đau lòng: Lương công chức không đủ sống!
 
1.3. Hậu quả từ thực trạng trên:
Với thực trạng như vậy đã dẫn đến rất nhiều hậu quả, có khi hết sức nghiêm trọng. Hậu quả trước hết là đối với cuộc sống của các cán bộ công chức. Đồng lương quá thấp làm cho chất lượng cuộc sống của cán bộ công chức không được đảm bảo. Họ phải sống một cách chật vật, khó khăn. Lương không đủ sống dẫn đến hiệu quả công việc kém. Bởi vì khi đồng lương chưa đủ sống họ sẽ không có điều kiện để nâng cao trình độ chuyên môn do không có đủ tiền!( Như trường hợp bác sĩ đã nói ở trên, phải sống trong tình cảnh như vậy, nếu muốn nâng cao trình độ chuyên môn thì phải mua một quyển dược thư giá 380 000 thì là điều rất khó!). Khi cuộc sống không đảm bảo họ sẽ mang tâm lí nặng nề khi làm việc, lúc nào cũng lo toan gánh nặng “cơm, áo, gạo, tiền…”. Khi đồng lương không đủ sống, nhiều cán bộ công chức còn tìm cách đi làm thêm để nâng cao thu nhập của mình. Do đó họ phải kham nhiều công việc khác nhau, có khi “nghề tay trái” lương cao hơn, nuôi được “nghề tay phải”, làm cho họ dồn tâm sức, trí lực về công việc làm thêm đó hơn là làm việc cho Nhà nước. Do vậy hiệu quả và hậu quả của những công việc mà cán bộ công chức thực thi ở cơ quan nhà nước là hết sức khôn lường. Theo tính tóan của các chuyên gia thì lương chỉ chiếm 30% cơ cấu thu nhập của một công chức, 10% là phụ cấp và tiền thưởng, thu nhập thêm lại chiếm đến 60% cơ cấu thu nhập của họ!
Thậm chí nhiều công chức đã không thể “chung thủy” với Nhà nước mà đã ra đi để “đầu quân” cho những doanh nghiệp nước ngoài để có tiền lương khá hơn, đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của họ tốt hơn. Điều đó dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám của các cơ quan Nhà nước, làm Nhà nước mất đi những người có tài năng và không kém lòng nhiệt huyết. Đó là những người muốn cải thiện cuộc sống của mình một cách trong sạch, họ tìm cách khác để mưu sinh bằng con đường lương thiện. Nhưng bên cạnh đó, vì lương không đủ sống và vì đồng tiền, nhiều cán bộ công chức đã bị tha hóa về mặt đạo đức, đã tìm cách sống nhờ vào “cái bóng của lương”. Đó là “lậu”. “Lậu” tức là những khoản tiền trục lợi từ tài sản nhà nước mà những cán bộ công nhân viên chức quèn có thể làm được: nhận hoa hồng, nâng giá, rút ruột, đổi tráo, sử dụng tài sản công vào việc riêng. Có một thực tế nhiều cán bộ công chức cấp cao, tiền nhiều nhà cao cửa rộng vẫn tham ô hối lộ, lạm dụng quyền hành. Vậy người ta sẽ đặt câu hỏi công chức ấy đâu thiếu tiền mà tham ô? (Như một số trường hợp ở Sở Giao thông Vận tải – Ban quản lý Đại lộ Đông Tây Tp.Hồ Chí Minh đầu năm 2009). Vâng! Vấn đề là nguyên nhân sâu xa của nó, ngày mới bắt đầu đi làm công chức ấy hiển nhiên lương không đủ sống và công chức phải làm thêm cũng như những mánh khóe trong công việc để kiếm thêm thu nhập. Từ ấy công chức “giàu” và để lại trong tiềm thức công chức một điểm xấu là kiếm tiền bất chính hoặc hợp pháp nhưng không hợp lý (lách luật). Tiềm thức ấy dần dần làm thay đổi bản chất trong sáng và thái hóa đạo đức của cán bộ công chức. Một khi “lậu” lớn dần lên thì trở thành tham nhũng. Tham nhũng lớn dần lên trở thành vấn đề nhức nhối lương tâm của toàn xã hội, trở thành quốc nạn và là một trong bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra. Đồng hành với tham nhũng là nạn nhận hối lộ. Nhiều cán bộ công chức cho rằng “Nhà nước không nuôi thì dân nuôi” cho nên đã dẫn đến tình trạng công chức “ăn” của người dân làm cho tình trạng “xã hội hóa phong bì” ngày càng gia tăng.
Từ những hậu quả như vậy còn dẫn đến hàng loạt những hệ quả xấu khác. Chẳng hạn tình trạng tham nhũng là cho tài sản quốc gia bị thất thoát (nếu là nguồn vốn nước ngoài đầu tư có thể làm mất lòng tin của bạn bè thế giới), dân mất lòng tin vào bộ máy Nhà nước v.v…và v.v…
2. Cơ sở pháp lý:
2.1. Cơ sở lý luận:
Trước thực trạng đó, với những hậu quả ấy đòi hỏi Nhà nước phải thực hiện chức năng, vai trò của mình là phải giải quyết những vấn đề đó một cách kịp thời và nhanh chóng. Tuy nhiên, đây là vấn đề nan giải, là “một bài toán khó” đặt ra cho Nhà nước. Mặc dù Nhà nước đã nhiều lần đưa ra lời giải nhưng vẫn chưa giải quyết được vấn đề. Bằng chứng là từ 1993 đến nay, Nhà nước đã nhiều lần tăng lương tối thiểu nhưng vẫn chưa đáp ứng được cuộc sống của cán bộ công chức: Lương tối thiểu quy định tháng 4 năm 1993 là 110.000 đồng đã được điều chỉnh theo các mốc: tháng 12 năm 1993 (120.000 đồng), tháng 1 năm 1997 (144.000 đồng), tháng 1 năm 1999 (180.000 đồng), tháng 1 năm 2001 (210.000 đồng), tháng 1 năm 2003 (290.000 đồng), tháng 10 năm 2005 (350.000 đồng), tháng 9 năm 2006 (450.000 đồng) và hiện nay ( tháng 11/2007 – Nghị định 166/2007/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2008) là 540.000 đồng. Tương ứng với những lần tăng lương tối thiểu như vậy chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu cuộc sống của cán bộ công chức mà thôi: mức lương tối thiểu ban hành năm 1993 chỉ đảm bảo 70% nhu cầu thực tế, năm 1997 chỉ đạt 50%, năm 1999 đạt 58%, năm 2001 đạt 68%, năm 2003 đạt 72,5% và năm 2006 đạt 75%. Hiện nay theo tính toán của các chuyên gia, mức lương tối thiểu theo quy định mới chỉ đáp ứng khoảng 78% nhu cầu thực tế! Như vậy tăng mức lương tối thiểu chưa phải là một giải pháp tốt và lâu dài để nâng mức sống của cán bộ công chức.
Để giải quyết tốt một vấn đề nào, trước hết phải xem xét những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, xác định đâu là nguyên nhân chủ yếu để tập trung giải quyết vào vấn đề chính.
2.2. Cơ sở pháp lý – Nguyên nhân lương không đủ sống:
Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau, dưới đây là những nguyên nhân chủ yếu mà xoay quanh là về hành chính tiền lương và văn bản quy phạm pháp luật quy định. Sở dĩ tiền lương công chức hiện nay không đủ sống. Trước hết là do chế độ tiền lương quá phức tạp, còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập. Xem xét một loạt các quy định, hướng dẫn về thực hiện chế độ tiền lương chúng ta sẽ thấy đâu là sự phức tạp - sự tồn tại.


STT


Văn bản

1


Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14-12-2004
Chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.

2


Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT/BNV-BTC ngày 05-01-2005:
Hướng dẫn thực hiện chuyển xếp lương cũ sang lương mới đối với cán bộ, công chức, viên chức.

3


Thông tư số 03/2005/TT-BNV ngày 05-01-2005:
Hướng dẫn thực hiện chế độ nâng bậc lương thường xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức.

4


Thông tư số 04/2005/TT-BNV ngày 05-01-2005:
Hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung đối với cán bộ công chức, viên chức.

5


Thông tư số 74/2005/TT-BNV ngày 26-07-2005:
Hướng dẫn một số điều của Nghị định số 115/2003/NĐ-CP, Nghị định số 116/2003/NĐ-CP và Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về chế độ công chức dự bị; về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ công chức, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước (Trong đó: Điều chỉnh lương cho Ths-TS tuyển dụng trước 01-7-2003)

6


Công văn số 1965/BNV-TL ngày 02-8-2005:
Về việc nâng bậc lương trước thời hạn theo thành tích xuất sắc.

7


Thông tư số 79/2005/TT-BNV ngày 10-08-2005:
Hướng dẫn chuyển xếp lương đối với cán bộ, công chức, viên chức khi thay đổi công việc và các trường hợp được chuyển công tác từ lực lượng vũ trang, cơ yếu và công ty nhà nước vào làm việc trong các cơ quan quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước (Dùng cho cả bổ nhiệm GS, PGS).

8


Thông tư số 80/2005/TT-BNV ngày 10-08-2005:
Hướng dẫn thực hiện chuyển xếp lương đối với cán bộ, công chức, viên chức có trình độ cao đẳng phù hợp với chuyên môn đang làm.

9


Thông tư liên tịch số 82/2005/TTLT/BNV-BTC ngày 10-08-2005:
Sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT/BNV-BTC ngày 05/01/2005 của Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện chuyển xếp lương cũ sang lương mới đối với cán bộ, công chức, viên chức.

10


Thông tư số 83/2005/TT-BNV ngày 10-08-2005:
Hướng dẫn sửa đổi, bổ sung chế độ nâng bậc lương và các chế độ phụ cấp lương đối với cán bộ, công chức, viên chức.

11


Nghị định số 117/2005/NĐ-CP ngày 15-09-2005:
Điều chỉnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội.

12


Quyết định số 2338/QĐ-XHNV-TC ngày 20-10-2006 của Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn:
Ban hành Quy định về nâng bậc lương trước thời hạn.

13


Thông tư số 02/2007/TT-BNV ngày 25-05-2007:
Hướng dẫn xếp lương khi nâng ngạch, chuyển ngạch, chuyển loại cán bộ, công chức, viên chức.

14


Nghị định số 166/2007/NĐ-CP ngày 16-11-2007:
Quy định mức lương tối thiểu chung

15


Thông tư số 28/2007/TT-BLĐTBXH ngày 05-12-2007:
Sửa đổi Thông tư số 13/2003/TT-BLĐTBXH và Thông tư số 14/2003/TT-BLĐTBXH ngày 30 tháng 5 năm 2003 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 114/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2002 của Chính phủ về tiền lương.

16


Thông tư liên tịch số 05/2007/TTLT-BNV-BTC ngày 10-12-2007:
Hướng dẫn thực hiện mức lương tối thiểu chung từ ngày 01 tháng 01 năm 2008 đối với cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và đơn vị sự nghiệp.

17


Thông tư số 154/2007/TT-BTC ngày 18-12-2007:
Hướng dẫn xác định nhu cầu, nguồn và phương thức chi thực hiện điều chỉnh mức lương tối thiểu chung đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và điều chỉnh trợ cấp đối với cán bộ xã đã nghỉ việc năm 2008.

18


Thông tư số 31/2007/TT-BLĐTBXH ngày 28-12-2007:
Hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng theo Nghị định số 184/2007/NĐ-CP ngày 17/12/2007 và Nghị định số 166/2007/NĐ-CP ngày 16/11/2007 của Chính phủ.
 
Last edited by a moderator:
Chiếu theo những quy định và hướng dẫn trên thì sở dĩ tiền lương công chức hiện nay không đủ sống trước hết là do chế độ tiền lương quá phức tạp, còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập. Tính phức tạp ở chỗ thang lương và bảng lương. Toàn bộ bảng lương công chức chia làm 21 ngành chia ra 196 ngạch lương tương ứng 196 ngạch công chức. Ngạch cao nhất có 16 bậc lương và thấp nhất có 7 bậc. Xếp lương theo ngạch lại máy móc theo mô hình chung là: sơ cấp, trung cấp, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp (và tương đương). Hệ số lương dù chỉ chia làm 4 khu vực nhưng có đến 164 hệ số!
Điểm không hợp lí là trả lương theo vị trí công việc, “Nhà nước lại có chính sách biên chế suốt đời, tăng lương đều đều theo thâm niên và cất nhắc lên thì dễ nhưng hạ xuống thì khó dù hiệu quả công việc thấp. Kết quả là “thực khách” ngày một đông mà “miếng bánh” ngân sách thì có hạn nên ai cũng phải ăn miếng bé. Cán bộ công chức nào cũng cố kiếm chỗ ngồi ở vị trí cao để hưởng phụ cấp cao. Đáng lý phụ cấp chỉ dành cho lực lượng yếu thế trong xã hội như thất nghiệp, tàn tật... thì ta lại dành cho người có thế mạnh trong xã hội” (Trần Đình Thiên - Phó viện trưởng viện kinh tế Việt Nam - Báo tuổi trẻ cuối tuần ). Một điểm không hợp lí khác là khoảng cách giữa các bậc của thang lương: Cụ thể là từ bậc 1, 2, 3 có khoảng cách 10-12% nhưng các bậc 4, 5, 6 thì lại tăng tiến 20% trở lên. Cá biệt có bậc liền nhau nhưng mức lương hơn kém tới 60%. Một điểm bất hợp lí khác là xem tiền lương là một khoản chi ngân sách, gần giống như chi cho phúc lợi xã hội, hưu trí, y tế, giáo dục... Quan điểm này làm nảy sinh tư tưởng bình quân, cào bằng. Như vậy, lương chưa theo sát với thị trường và chưa thể trở thành nguồn thu nhập chính đủ để nuôi sống công chức. Đồng lương và những khoản thu nhập chưa trở thành công cụ hữu hiệu khuyến khích cán bộ công chức cống hiến và sáng tạo. Lương được trả từ ngân sách. Trong khi đó nguồn ngân sách lại phải trang trải cho nhiều lĩnh vực khác nhau. Việc giải ngân lại còn nhiều vấn đề tồn tại, không hiệu quả, thất thoát.
Một nguyên nhân nữa làm cho lương công chức không đủ sống là ở chỗ nước ta còn nghèo, kém phát triển nhưng lại có tỉ lệ người hưởng lương ngân sách cao hàng đầu khu vực: Cán bộ công chức, hưu trí, thương binh liệt sĩ; hệ thống chính trị: Đảng, đoàn thể, một số hội nghề nghiệp... Theo Bộ LĐ-TB&XH, hiện cả nước có hơn 6 triệu người hưởng lương ngân sách. Trong đó có 1,5 triệu người là cán bộ công chức, 1,5 triệu người là đối tượng chính sách xã hội và cán bộ công nhân hưu trí, 300.000 người là cán bộ xã phường (đối tượng được hưởng lương, phụ cấp). Còn lại là các cán bộ thuộc hệ thống các tổ chức, hiệp hội đoàn thể, lực lượng vũ trang và cán bộ công nhân viên chức thuộc hệ thống các tổ chức kinh tế nhà nước.
3. Những kiến nghị đề xuất:
3.1. Những đề xuất:
Dựa vào những nguyên nhân trên, thì hướng giải quyết trước hết là phải cải cách chế độ tiền lương. Tách riêng các đối tượng hưởng lương ngân sách, tách riêng các khu vực lương như: hành chính, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp (giáo dục, y tế…) để chi trả hợp lí hơn. Tiến tới trả lương theo hiệu quả công việc, ai giỏi sẽ được hưởng lương cao, ai làm việc không hiệu quả thì phải nhận lương thấp. Thậm chí công chức nào không đáp ứng được nhu cầu công việc, làm việc không hiệu quả thì có thể tiến hành tinh giản, vừa tinh giản được bộ máy Nhà nước vừa đảm bảo tiền lương cho những công chức có năng lực.
Đội ngũ công chức đông nên dẫn đến tình trạng thừa. Thứ nhất là do thủ tục hành chính còn rờm rà. Thứ hai là do thực hiện biên chế suốt đời. Trong khi đó, nhiều cán bộ công chức không đủ năng lực, đạo đức vẫn tiếp tục và mãi mãi (đến lúc về hưu) lĩnh lương từ ngân sách nhà nước. Điều này gây nên tình trạng “lãng phí chỗ ngồi”, lãng phí cơ hội của người khác và làm hỏng bộ máy và làm cho đội ngũ làm công ăn lương ngày càng nhiều. Đã thừa thì phải giảm bớt. Đó cũng là điều hợp lí. Tuy nhiên, khi họ không là công chức nữa thì Nhà nước vẫn quan tâm, đảm bảo cuộc sống cho họ bằng nhiều cách còn hơn là bằng lương ngân sách.
Lương thấp thì phải tăng lương nhưng tăng như thế nào thì vẫn là một vấn đề đặt ra. Vừa qua Bộ LĐ-TB&XH có đệ trình Chính phủ Đề án cái cách tiền lương giai đọan 2008-2012 đề nghị tăng mức lương tối thiểu lên 15% đến 20% vào tháng 1 hằng năm, tiến đến hợp nhất mức lương tối thiểu giữa các doanh nghiệp trong và ngòai Nhà nước vào năm 2012. Nhưng Chính Phủ đã không chấp nhận đề án này vì ngân sách không đủ khả năng chi trả cho khỏan tăng này. Nếu tăng theo phương án cao là 20%/năm tổng chi cho tăng lương sẽ chiếm tới 95% ngân sách Nhà nước. Như vậy muốn tăng được lương thì chỉ còn trông vào ngân sách. Làm thế nào để tăng ngân sách? Đó là vấn đề khó. Nhà nước không thể cứ tăng thuế lên được bởi vì người dân phải chịu đựng. Nếu Nhà nước cắt giảm đầu tư từ ngân sách thì lại mất đi nhiều lợi ích khác. Có lẽ chỉ trông vào sự phát triển nhanh, mạnh, vững chắc của nền kinh tế để tăng nguồn thu cho Nhà nước mà thôi. Lúc ấy mới có thể dám mơ đến tăng lương!
Một hướng giải quyết khác là vẫn tiến hành tăng lương nhưng không tăng một cách dàn trải để đảm bảo đủ khả năng chi trả từ ngân sách. Tất nhiên phải chọn những lĩnh vực trọng điểm để tăng lương: những lĩnh vực thu hút nhân tài, lĩnh vực lao động nguy hiểm hay dễ tham nhũng hối lộ. Cụ thể là: các cán bộ công chức quản lý các Tổng công ty lớn, các cán bộ chiến sỹ quân đội, công an ở địa bàn nguy hiểm như biên giới, cảnh sát điều tra, hình sự, cảnh sát khu vực các địa bàn phức tạp, các thẩm phán, thư ký toà án, kiểm sát viên, nhân viên hải quan. Khi lương cao phải có chế tài nặng khi phát hiện tham nhũng hay quan liêu, hạch sách dân. Có như vậy, cán bộ công chức ở những ngành nghề này mới “không cần tham nhũng, không dám tham nhũng, không thể tham nhũng”..
Khi tăng lương phải tiến hành bình ổn giá cả thị trường tránh trường hợp lương tăng như bong bóng bay mà giá cả thì tăng nhanh như hỏa tiễn.
Về vấn đề này, Ông Đào Trọng Thi, (chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng Quốc hội) có ý kiến: “Nếu cứ tăng lương đồng loạt thì sẽ không giải quyết được vấn đề. Bộ phận ăn lương và được hưởng trợ cấp từ ngân sách nhà nước còn quá lớn nên nếu trải đều ra thì ngân sách nhà nước chưa đủ sức gánh vác. Phải có giải pháp đột phá bằng cách tăng lương không đồng đều, đột phá vào một điểm nào đó để tạo sự chuyển biến tăng thêm năng lực hoạt động của nền kinh tế, tăng thêm nguồn ngân sách, từ đó mới mở rộng phạm vi tăng lương. Nếu cứ luẩn quẩn tăng lương nhất loạt thì khả năng của nền kinh tế không chạy kịp với sự trượt giá và không kịp với mức sống thực tế của người làm công ăn lương… Chúng ta phải tập trung nghiên cứu chứ làm đối phó như hiện nay sẽ không giải quyết được căn bản vấn đề”. Ông Nguyễn Huy Cận (đại biểu Quốc hội, chủ tịch Liên đoàn Lao động Tp.Hồ Chí Minh ) cũng cho rằng: “cải cách chế độ chính sách tiền lương theo hướng: công chức có thể sống dựa vào lương và có động lực phấn đấu. Khoản thu nhập từ lương cần được công khai, minh bạch. Muốn cải cách, ngoài việc điều chỉnh trực tiếp các chính sách lương, cần hình thành thị trường lao động theo cơ chế thị trường. Trong hoàn cảnh có quá nhiều người nằm trong hệ thống hưởng lương ngân sách thì việc tăng lương đồng loạt sẽ kéo theo nhiều vấn đề về cơ chế, chính sách khác. Vì vậy, trước tiên phải cải cách nền hành chính một cách tổng thể sao cho mỗi vị trí cán bộ công chức đều có năng lực, động lực làm việc tốt nhất. Sau đó có thể phân loại các đối tượng hưởng lương để có lộ trình cải cách phù hợp. Trong lộ trình đó, tôi cho rằng nên bắt đầu từ lương giáo viên, nhân viên y tế trước”.
Chính sách tiền lương là một bộ phận trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội của đất nước. Cải tiến chế độ tiền lương phải giảm tính bất hợp lý trong chế độ tiền lương hiện hành, tạo điều kiện bài trừ tham nhũng, tính vô trách nhiệm, vô kỷ luật, bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế-xã hội. Tiền lương phải thực sự trở thành công cụ, động lực mạnh để khuyến khích người lao động-cán bộ công chức. Nhà nước phải kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu đề ra, dự báo trước những nhân tố ảnh hưởng đến biến động của mặt bằng giá để chủ động có biện pháp xử lý.
Như vậy, cải cách chế độ tiền lương phải theo hướng:
- Làm rõ và luật hóa vai trò mức lương “sàn” của mức lương tối thiểu chung, ban hành cơ chế điều chỉnh lương tối thiểu chung theo khả năng nền kinh tế, theo quan hệ cung - cầu lao động, biến động của giá cả sinh hoạt và mức thu nhập chung trong xã hội.
- Căn cứ mức lương tối thiểu chung, hoàn thiện cơ chế cho áp dụng hệ số tăng thêm tiền lương tối thiểu khác nhau tùy thuộc vào nguồn thu và kết quả hoạt động, sản xuất kinh doanh của từng cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp trong khu vực nhà nước. Về lâu dài, theo sự phát triển của thị trường lao động, cần quy định hệ thống tiền lương tối thiểu theo vùng , theo ngành áp dụng chung cho cả nước để đảm bảo quyền lợi của người lao động và cán bộ công chức.
- Để có chế độ tiền lương linh hoạt và để thu gọn hệ thống thang, bậc lương, thu gọn các chế độ phụ cấp ưu đãi ngành, nghề, thuận lợi cho việc xếp lương khi luân chuyển cán bộ, công chức, quan hệ bội số tiền lương chỉ xác định theo yếu tố mức độ phức tạp lao động. Các yếu tố điều kiện lao động và ưu đãi ngành, nghề quy định bằng phụ cấp, không tính vào quan hệ tiền lương.
- Đối với các đơn vị sự nghiệp công: Thực hiện trao quyền tự chủ về tài chính, tiền lương và biên chế. Trên cơ sở các nguồn thu (từ ngân sách và từ xã hội hóa) tiến hành phân loại các đơn vị theo Nghị định số 10/2002/NĐ-CP để có cơ chế hổ trợ kinh phí và cơ chế trả lương cho phù hợp.
- Hệ thống thang, bảng lương khu vực sản xuất kinh doanh được quy định theo ngành kinh tế, kỹ thuật hoặc nhóm ngành nghề, phân biệt rõ chức năng quản lý và chức năng kinh doanh.
- Tiền lương theo khu vực quân đội và công an có hệ thống riêng và chú ý đến sự cống hiến cho đất nước.
- Đối với các cơ quan hành chính nhà nước, Đảng, Đoàn thể: Toàn bộ kinh phí hoạt động (trong đó có tiền lương) do ngân sách đảm bảo, vì vậy cần thực hiện tốt việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, mở rộng khoán biên chế và kinh phí hành chính theo quyết định số 192/2001/QĐ-TTg. Căn cứ vào kinh phí và biên chế được khoán, đơn vị được chủ động sử dụng có hiệu quả, hoàn thành nhiệm vụ được giao, được sử dụng phần kinh phí tiết kiệm chủ yếu để bù đắp vào tiền lương. Về lâu dài, cần xây dựng cơ cấu ngạch công chức cho phù hợp và thực hiện chế độ cấp kinh phí ngân sách theo khối lượng nhiệm vụ được giao.
Như trên là đề xuất các hướng giải quyết để Nhà nước có cách giải quyết cũng như có các giải pháp cụ thể, hợp lý, hiệu quả để nâng cao tiền lương, mức sống của cán bộ công chức hiện nay. Làm an lòng cán bộ công chức để công chức tận tâm cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
 
Last edited by a moderator:
3.2. Kiến nghị:
Vấn đề tiền lương tối thiểu không chỉ có ý nghĩa với việc làm công ăn lương của cán bộ công chức mà ảnh hưởng đến chất lượng của đội ngũ những công chức gắn bó với đất nước, những người xây dựng đất nước Việt Nam. Bên cạnh đó làm ổn định quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động. Do vậy, kiến nghị Quốc hội sớm ban hành Luật tiền lương tối thiểu. Đứng trên phạm vi toàn xã hội, tiền lương được xem xét và đặt trong quan hệ phân phối thu nhập, quan hệ sản xuất và tiêu dùng, quan hệ trao đổi và do vậy các chính sách về tiền lương, thu nhập luôn luôn là chính sách trọng tâm của Quốc gia. Trọng tâm ấy phải được thể chế bằng luật là một tất yếu để quản lý và cũng cố-xây dựng đất nước.
Việc cải cách chính sách tiền lương được thực hiện theo các mục tiêu và quan điểm: coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; cải cách chính sách tiền lương phải tiến tới bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội. Cải cách chính sách tiền lương, kiến nghị Chính phủ xem đây là một mục tiêu quan trọng của chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước. Chính phủ phải có đề án cải cách hành chính tiền lương theo sát với tình hình kinh tế trong và ngoài nước nhất là trong thời điểm khủng hoảng kinh tế để đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của công chức.
Cải cách tiền lương không chỉ là trách nhiệm của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ có liên quan mà bao gồm cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương. Theo phân cấp, từ Bộ đến Sở-Ban-Ngành và mọi nơi có cán bộ công chức đều phải tích cực rà soát, báo cáo, kiến nghị và tham mưu cho cấp trên về giải pháp cải cách tiền lương. Cá nhân tôi kiến nghị tất cả các cơ quan hữu quan phải chú trọng vào 3 vấn đề chính để tiến hành cải cách có hiệu quả và giảm thiểu các bất hợp lý phát sinh khi tiến hành cải cách:
1. Tách bộ phận sự nghiệp ra khỏi bộ máy hành chính và sau đó tiến hành từng bước xã hội hóa.
2. Các đoàn thể trong hệ thống chính trị phải tự chủ về kinh phí hoạt động để thực hiện đúng vai trò phản biện xã hội.
3. Tinh giản bộ phận công chức hành chính sao cho trong bộ máy chỉ gồm những thành phần tinh hoa...

Dưới góc độ một người làm việc trong cơ quan nhà nước và thực thi quản lý nhà nước. Nếu được thụ lý và tham mưu cho lãnh đạo để kiến nghị cơ quan cấp trên và Sở-Ngành liên quan về vấn đề tiền lương công chức để gốp phần cũng cố tiền lương cho công chức từ đó nâng cao chất lượng công tác và hiệu quả của công việc tại cơ quan nhà nước nói chung và đơn vị mình nói riêng tôi sẽ tham mưu với nội dung như trong công văn sau:
 
Last edited by a moderator:
ỦY BAN NHÂN DÂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
xxxxxxxxxxxxx

Số : ….…../xxxx-QHXDMT

V/v: Mức lương tối thiểu chung của cán bộ công chức


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc


Tp.Hồ Chí Minh, ngày ... tháng 3 năm 2009


Kính gửi:
- Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh;
- Sở Nội vụ thành phố Hồ chí Minh;- Sở Lao động Thương binh và Xã hội.

Căn cứ Nghị định số 166/2007/NĐ-CPngày 16-11-2007 của Chính phủ quy định mức lương tối thiểu chung; Nghị định số110/2008/NĐ-CP ngày 10-10-2008 của Chính phủ quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động.
Xem xét tiền lương của công chức trong thành phố nói chung và Ban xxx nói riêng hiện nay, Ban xxx nhận thấy có điểm bất cập như sau:
Theo hai Nghị định trên thì mức lương tối thiểu chung của cán bộ công chức và người lao động ở các vùng IV là chênh nhau 110.000 đồng/tháng (540.000 đồng với 650.000 đồng), nhưng ở các vùng kinh tế phát triển (vùng I) thì mức lương tối thiểu này rất chênh lệch, công chức 540.000 đồng/tháng, người lao động 800.000 đồng/tháng. Từ một thực tế bất cập như vậy khiến cho cuộc sống công chức vốn khó khăn nay lại nảy sinh tư tưởng làm việc cho các Công ty thì có thu nhập cao hơn và không ít công chức vừa làm trong nhà nước vừa làm cho công ty nên chất lượng công việc không tốt. Và cũng gây nên một hiện tượng chảy máu chất xám trong các cơ quan nhà nước khi mà một số lượng lớn các tri thức có năng lực không còn gắn bó với cơ quan nhà nước. Ban xxx xin kiến nghị giải pháp như sau:

Các Sở xin ý kiến Ủy ban nhân dân thành phố và kiến nghị Chính phủ nâng mức lương tối thiểu chung của cán bộ công chức bằng với mức lương tối thiểu chung của người lao động ứng với các vùng như quy định tại Điều 1 Nghị định 110/NĐ-CP. Hoặc kiến nghị và xin ý kiến Chính phủ nên điều chỉnh mức lương tối thiểu của cán bộ công chức ở Tp.Hồ Chí Minh và Tp.Hà Nội cao hơn 540.000 đồng/tháng.

Kính mong Ủy ban nhân dân thành phố và các Sở xem xét!


TRƯỞNG BAN





Nguyễn D
Nơi nhận :
- Như trên;
- P.TB a;
- P.TB b;
- P.TB c;
- Lưu.



4. Kết luận:
Nói tóm lại, một thực trạng như trên là do có nhiều nguyên nhân mà đồng lương công chức hiện nay vẫn còn eo hẹp. Và Nhà nước trước một thực trạng như vậy, với chức năng của mình cần phải nhanh chóng giải quyết vấn đề này. Đó là mong mỏi thiết tha của cán bộ công chức nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Làm được việc này Nhà nước mới có thể đạt được ba mục tiêu: tăng cường hiệu quả nền hành chính, giảm gánh nặng ngân sách và tăng thu nhập cho cán bộ công chức hay những người làm việc cho Nhà nước theo chế độ hợp đồng.
Qua khóa học đã đem lại cho tôi nhiều kiến thức và kỷ năng - khả năng quản lý nhà nước tốt hơn. Từ những nhận thức ấy tôi đã nêu ra một vấn đề cũng hết sức tế nhị và nang giải, đó là nhà nước với vấn đề tiền lương công chức. Từ những thực trạng cũng như kiến nghị và đề xuất tôi mong những trăn trở của tôi về vấn đề này sẽ mang lại một khía cạnh nào đấy để các cấp - các ngành và các đơn vị, cá nhân có liên quan hãy chú tâm và vào cuộc để công chức ổn định hơn trước cuộc sống và ngày một làm việc hiểu quả hơn, gắn bó với cơ quan nhà nước gốp phần xây dựng đất nước cũng như cũng cố bộ máy nhà nước ngày một tin yêu hơn trong lòng nhân dân cả nước.
 
Last edited by a moderator:
Híc...chắc dài quá và không ai rảnh hơi đi đọc tiểu luận của mình đâu. Híc...nhưng nhỡ có ai đọc, thấy có vấn đề thì thỉnh giáo giúp em nha. Đầu tuần em nọp bài đấy. Híc...cảm ơn các bác nhiều. Híc.....
 
giờ lương tối thiểu đã lên tới min là 650k rùi ạh.theo ND 110/CP áp dụng từ ngày 1/1/09.:D
 
CHÍNH PHỦ
________
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 110/2008/NĐ-CP
_____________________________________
Hà Nội, ngày 10 ttháng 10 năm 2008
[FONT=.VnTime] [/FONT]
[FONT=.VnTime] [/FONT]
NGHỊ ĐỊNH
Quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc
ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình,
cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động
_________
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Bộ luật Lao động ngày 23 tháng 6 năm 1994; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động ngày 02 tháng 4 năm 2002; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động ngày 29 tháng 6 năm 2006;
Căn cứ Nghị quyết số 56/2006/NQ-QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 của Quốc hội khoá XI về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2006 - 2010;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1. Quy định mức lương tối thiểu vùng áp dụng đối với:
1. Công ty được thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ được tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
3. Doanh nghiệp thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp (không bao gồm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài).
4. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động.
Các công ty, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này gọi chung là doanh nghiệp.
Điều 2. Mức lương tối thiểu vùng dùng để trả công đối với người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường ở các doanh nghiệp quy định tại Điều 1 Nghị định này thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 theo các vùng như sau:
[FONT=.VnTime]1. Møc 800.000 ®ång/th¸ng¸p dông ®èi víi doanh nghiÖp ho¹t ®éng trªn ®Þa bµn thuéc vïng I.[/FONT]
[FONT=.VnTime]2. Møc 740.000 ®ång/th¸ng ¸p dông ®èi víi doanh nghiÖp ho¹t ®éng trªn ®Þa bµn thuéc vïng II.[/FONT]
[FONT=.VnTime]3. Møc 690.000 ®ång/th¸ng ¸p dông ®èi víi doanh nghiÖp ho¹t ®éng trªn ®Þa bµn thuéc vïng III.[/FONT]
[FONT=.VnTime]4. Møc 650.000 ®ång/th¸ng ¸p dông ®èi víi doanh nghiÖp ho¹t ®éng trªn c¸c ®Þa bµn thuéc vïng IV.[/FONT]
[FONT=.VnTime]Danh môc c¸c ®Þa bµn vïng I, vïng II, vïng III, vïng IV t¹i Phô lôc kÌm theo NghÞ ®Þnh nµy.[/FONT]
Điều 3.
1. Doanh nghiệp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 1 Nghị định này áp dụng mức lương tối thiểu vùng quy định tại Điều 2 Nghị định này để tính đơn giá tiền lương.
Đối với doanh nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định này bảo đảm các điều kiện quy định tại Điều 4 Nghị định số 206/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ quy định quản lý lao động, tiền lương, thu nhập trong các công ty nhà nước thì được áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm không quá 1,34 lần so với mức lương tối thiểu chung; trường hợp bảo đảm các điều kiện quy định tại Điều 4 Nghị định số 206/2004/NĐ-CP và có lợi nhuận kế hoạch cao hơn từ 5% trở lên so với lợi nhuận thực hiện của năm trước liền kề thì áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm tối đa không quá 2 lần so với mức lương tối thiểu chung quy định tại Nghị định số 166/2007/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2007 để tính đơn giá tiền lương.
2. Đối với doanh nghiệp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 1 Nghị định này:
a) Áp dụng mức lương tối thiểu vùng quy định tại Điều 2 Nghị định này để tính các mức lương trong thang lương, bảng lương, các loại phụ cấp lương, tính các mức lương ghi trong hợp đồng lao động và thực hiện các chế độ khác do doanh nghiệp xây dựng và ban hành theo thẩm quyền do pháp luật lao động quy định;
b) Mức tiền lương thấp nhất trả cho người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy nghề) phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng quy định tại Điều 2 Nghị định này;
c) Khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện mức lương tối thiểu cao hơn mức lương tối thiểu vùng quy định tại Điều 2 Nghị định này;
d) Căn cứ mức lương tối thiểu vùng quy định tại Điều 2 Nghị định này, doanh nghiệp điều chỉnh lại tiền lương trong hợp đồng lao động cho phù hợp.
Điều 4.
1. Mức lương tối thiểu vùng quy định tại Điều 2 Nghị định này được điều chỉnh tùy thuộc vào mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá sinh hoạt và cung cầu lao động theo từng thời kỳ.
2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sau khi lấy ý kiến Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đại diện người sử dụng lao động và Bộ, ngành liên quan trình Chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng quy định tại Điều 2 Nghị định này.
Điều 5.
1. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. B[FONT=.VnTime]·i bá[/FONT] [FONT=.VnTime]NghÞ ®Þnh sè 167/2007/N§-CP ngµy 16 th¸ng 11 n¨m 2007 cña ChÝnh phñ quy ®Þnh møc l­¬ng tèi thiÓu vïng ®èi víi ng­êi lao ®éng lµm viÖc ë c«ng ty, doanh nghiÖp, hîp t¸c x·, tæ hîp t¸c, trang tr¹i, hé gia ®×nh, c¸ nh©n vµ c¸c tæ chøc kh¸c cña ViÖt Nam cã thuª m­ín lao ®éng.[/FONT]
2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm hướng dẫn thi hành Nghị định này.
Điều 6. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này ./.


Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- VP BCĐ TW về phòng, chống tham nhũng;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Văn phòng TW và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các UB của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán Nhà nước;
- UB Giám sát tài chính QG;
- BQL KKTCKQT Bờ Y;
- Ngân hàng Chính sách Xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- Các Tập đoàn kinh tế NN, Tổng công ty 91;
- VPCP: BTCN, các PCN,
các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo;
- Lưu: Văn thư, KGVX (5b). M
TM. CHÍNH PHỦ

THỦ TƯỚNG

Đã ký
Nguyễn Tấn Dũng

[FONT=.VnTimeH]
phan phu luc .....quy dinh cac vung duoc huong muc luong toi thieu/[/FONT]
 
Điều 3.
1. Doanh nghiệp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 1 Nghị định này áp dụng mức lương tối thiểu vùng quy định tại Điều 2 Nghị định này để tính đơn giá tiền lương.
Đối với doanh nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định này bảo đảm các điều kiện quy định tại Điều 4 Nghị định số 206/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ quy định quản lý lao động, tiền lương, thu nhập trong các công ty nhà nước thì được áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm không quá 1,34 lần so với mức lương tối thiểu chung; trường hợp bảo đảm các điều kiện quy định tại Điều 4 Nghị định số 206/2004/NĐ-CP và có lợi nhuận kế hoạch cao hơn từ 5% trở lên so với lợi nhuận thực hiện của năm trước liền kề thì áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm tối đa không quá 2 lần so với mức lương tối thiểu chung quy định tại Nghị định số 166/2007/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2007 để tính đơn giá tiền lương.
* Các doanh nghiệp Nhà nước vẫn có thể xây dựng và áp dụng hệ số điều chỉnh cơ mà, chỉ cần không vượt quá 2 lần theo quy định, nếu chỉ tính như vậy thì quả là đáng ngại. Thôi đành làm việc theo kiểu "tiền nào của đấy!".
 
ỦY BAN NHÂN DÂN







THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH





xxxxxxxxxxxxx

Số : ….…../xxxx-QHXDMT



V/v: Mức lương tối thiểu chung của cán bộ công chức



CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM




Độc lập – Tự do – Hạnh phúc







Tp.Hồ Chí Minh, ngày tháng 3 năm 2009



Kính gửi:
- Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh;
- Sở Nội vụ thành phố Hồ chí Minh.

Căn cứ Nghị định số 166/2007/NĐ-CPngày 16-11-2007 của Chính phủ quy định mức lương tối thiểu chung; Nghị định số167/2007/NĐ-CP ngày 16-11-2007 của Chính phủ quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động.

Xem xét tiền lương của công chức trong thành phố nói chung và Ban xxxxxxxxx nói riêng hiện nay, Ban xxxxxxxxx nhận thấy có điểm bất cập như sau:
Theo hai Nghị định trên thì mức lương tối thiểu chung của cán bộ công chức và người lao động ở các vùng kinh tế còn chậm phát triển là như nhau (540.000/tháng), nhưng ở các vùng kinh tế phát triển, nhất là Hồ Chí Minh thì mức lương tối thiểu này rất chênh lệch, công chức 540.000 đồng/tháng, người lao động 620.000 đồng/tháng. Từ một thực tế bất cập như vậy khiến cho cuộc sống công chức vốn khó khăn nay lại nảy sinh tư tưởng làm việc cho các Công ty thì có thu nhập cao hơn và không ít công chức vừa làm trong nhà nước vừa làm cho công ty nên chất lượng công việc không tốt. Và cũng gây nên một hiện tượng chảy máu chất xám trong các cơ quan nhà nước khi mà một số lượng lớn các tri thức có năng lực không còn gắn bó với cơ quan nhà nước. Ban quản lý Khu công nghệ cao xin kiến nghị giải pháp như sau:
Sở Nội vụ xin ý kiến Ủy ban nhân dân thành phố và kiến nghị Bộ Nội vụ nâng mức lương tối thiểu chung của cán bộ công chức bằng với mức lương tối thiểu chung của người lao động ứng với các vùng như quy định tại khoản 1 và 2 Điều 2 Nghị định 167/NĐ-CP. Hoặc kiến nghị và xin ý kiến Bộ Nội vụ và Chính phủ nên điều chỉnh mức lương tối thiểu chung của người lao động ở Hồ Chí Minh và Hà Nội thấp hơn 620.000 đồng/tháng.
Kính mong Ủy ban nhân dân thành phố và Sở Nội vụ xem xét!


TRƯỞNG BAN






Nguyễn D
Nơi nhận :
- Như trên;
- P.TB a;
- P.TB b;
- P.TB c;
- Lưu.



4. Kết luận:
Nói tóm lại, một thực trạng như trên là do có nhiều nguyên nhân mà đồng lương công chức hiện nay vẫn còn eo hẹp. Và Nhà nước trước một thực trạng như vậy, với chức năng của mình cần phải nhanh chóng giải quyết vấn đề này. Đó là mong mỏi thiết tha của cán bộ công chức nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Làm được việc này Nhà nước mới có thể đạt được ba mục tiêu: tăng cường hiệu quả nền hành chính, giảm gánh nặng ngân sách và tăng thu nhập cho cán bộ công chức hay những người làm việc cho Nhà nước theo chế độ hợp đồng.
Qua khóa học đã đem lại cho tôi nhiều kiến thức và kỷ năng - khả năng quản lý nhà nước tốt hơn. Từ những nhận thức ấy tôi đã nêu ra một vấn đề cũng hết sức tế nhị và nang giải, đó là nhà nước với vấn đề tiền lương công chức. Từ những thực trạng cũng như kiến nghị và đề xuất tôi mong những trăn trở của tôi về vấn đề này sẽ mang lại một khía cạnh nào đấy để các cấp - các ngành và các đơn vị, cá nhân có liên quan hãy chú tâm và vào cuộc để công chức ổn định hơn trước cuộc sống và ngày một làm việc hiểu quả hơn, gắn bó với cơ quan nhà nước gốp phần xây dựng đất nước cũng như cũng cố bộ máy nhà nước ngày một tin yêu hơn trong lòng nhân dân cả nước.

Bài viết của bạn vanhuongthuthuy rất thực tế.tôi có vài lời chia sẽ, tôi là một sinh viên mới ra trường làm việc trong cơ quan nhà nước.chắc tất cả mọi người đều biết.lương của một kỹ sư sao lại thấp quá.nhà nước ta khi nào cũng nói câu:"thu hút nhân tài", thế cách thu hút của nhà nước ta thể hiện ở chỗ nào, tôi không thấy,lương kỹ sư theo hệ số của nhà nước:=2.34*540.000=1.263.600.ôi trời! Bằng 1/3 lương của công nhân xây dựng(mỗi tháng 3.000.000 đ).
chưa kể giá cả leo thang từng ngày, mà trong 3 năm thì hệ số của kỹ sư mới nhảy lên một chút khiêm tốn.liệu họ có đủ sống không, chắc chắn là không.mà khi không nuôi sống đủ bản thân, lúc nào cũng nghĩ đến làm thế nào để họ trang trải cuộc sống hằng ngày, họ có còn tâm huyết với cơ quan nhà nước không, trong khi nói nhà nước ta theo cơ chế thị trường, thế nhưng tiền lương như vậy có theo quy luật đó chưa, lương của cán bộ so với lương của các doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có sự sai khác một trời một vực.ôi trời còn nhiều chuyện để nói nữa.chẳng hạn càng "thâm niên" càng lương cao, mà không xét đến năng lực,hiệu quả ,năng suất làm việc, thì liệu có ai bỏ hết tâm huyết của mình ra để làm không, họ làm bao nhiêu cũng bằng một người không bỏ ra gì cả. Họ cũng hưởng lương như người không có nhiều đóng góp cho cơ quan,vì thế, càng "thâm niên" cán bộ càng ì. Trước đây là một sinh viên mới ra trường, tôi rất hăng say trong công việc, làm việc hết mình, lúc đó có anh đã nhiều năm gắn bó với cơ quan bảo:"làm gì cho nhiều em, không bằng những người đang ngồi không kia kìa".tôi thiết nghĩ nhà nước ta nên có một chế độ tiền lương mới để khuyến khích mọi người trong công việc hơn .
Giải pháp:
- Để cho các doanh nghiệp tự quyết định chế độ thu chi, nhà nước không nên lúc nào cũng ràng buộc về (hệ số x lương cơ bản).
- Tăng lương cơ bản cho phù hợp với nền kinh tế thị trường.
- Hệ số lương trong các năm rút ngắn thời gian lại.
- Có chế độ đãi ngộ đối với những cán bộ có những thành tích xuất sắc trong công tác.
 
Last edited by a moderator:
Lương công chức

Lương công chức đã tăng! Điều đáng mừng cho công chức, không ngờ vấn đề tiền lương công chức được đề cập nhiều khi NĐ 110 ban hành thì nay CP đã ban hành NĐ 33 để tăng mức lương tối thiểu chung. Từ nay (1/5/2009) công chức có mức lương tối thiểu là 650 thay vì 540.
 

File đính kèm

@ "thanhha_meco"

Cái mà mà bạn nói là Nghị định 77/2000/NĐ-CP

Nhắc bạn tí: lần sau post có đầu có đuôi hơn tí nhé kẻo anh em trên diễn đàn có những tài liệu quý mà bạn cần họ lại không up cho.

Thân!
 

File đính kèm

lương tối thiểu và các khoản phụ cấp

Tôi muốn hỏi ý kiến các bạn 1 chút : lương tối thiểu theo NĐ 110 và bây giờ là NĐ 97 có chia làm 4 mức theo 4 vùng quy định. (4 vùng này được xác định theo từng khu vực). Lương trong tính dự toán còn phải kèm thêm các loại phụ cấp như lưu động, khu vực theo thông tư liên tịch số 11; như vậy có phải giá nhân công đã tính 2 lần phụ cấp khu vực không? tôi không biết giải thích vấn đề này thế nào cho dễ hiểu nhỉ?
 
Phụ cấp khu vực

Tôi muốn hỏi ý kiến các bạn 1 chút : lương tối thiểu theo NĐ 110 và bây giờ là NĐ 97 có chia làm 4 mức theo 4 vùng quy định. (4 vùng này được xác định theo từng khu vực). Lương trong tính dự toán còn phải kèm thêm các loại phụ cấp như lưu động, khu vực theo thông tư liên tịch số 11; như vậy có phải giá nhân công đã tính 2 lần phụ cấp khu vực không? tôi không biết giải thích vấn đề này thế nào cho dễ hiểu nhỉ?
Cách hiểu:
- Lương tối thiểu bạn có thể được tính tại 4 khu vực theo NĐ97 là mức lương dùng để trả tiền công cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường ở các doanh nghiệp theo các vùng
- Phụ cấp khu vực: là khoản phụ cấp thêm cho người lao động làm ở vùng có điều kiện bất lợi hơn so với các vùng khác
Trích TT11-2005-BTBLDXH:
1. Nguyên tắc xác định phụ cấp khu vực:
a) Các yếu tố xác định phụ cấp khu vực:
Yếu tố địa lý tự nhiên như: khí hậu xấu, thể hiện ở mức độ khắc nghiệt về nhiệt độ, độ ẩm, độ cao, áp suất không khí, tốcđộ gió, …cao hơn hoặc thấp hơn so với bình thường, làm ảnh hưởng đếnsức khoẻ con người;
Xa xôi, hẻo lánh (mật độ dân cư thưa thớt, xa các trungtâm văn hoá, chính trị, kinh tế, xa đất liền....), đường xá, cầu cống,trường học, cơ sở y tế, dịch vụ thương mại thấp kém, đi lại khó khăn,ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của con người; Ngoài ra, khixác định phụ cấp khu vực có thể xem xét bổ sung các yếu tố đặc biệt khókhăn, biên giới, hải đảo, sình lầy.
b) Phụ cấp khu vực được quy định chủ yếu theo địa giới hành chính xã, phường, thị trấn (gọi chung là xã). Các cơ quan, đơnvị, công ty nhà nước đóng trên địa bàn xã nào thì hưởng theo mức phụ cấp khu vực của xã đó. Một số trường hợp đặc biệt đóng xa dân hoặc giápranh với nhiều xã được xem xét để quy định mức phụ cấp khu vực riêng.
c) Khi các yếu tố dùng xác định phụ cấp khu vực hoặcđịa bàn xã thay đổi (chia, nhập, thành lập mới,....), phụ cấp khu vực đượcxác định hoặc điều chỉnh lại cho phù hợp.

Như vậy, hai mục trên hoàn toàn khác nhau về bản chất.
 
Last edited by a moderator:
Tải bộ cài phần mềm Dự toán GXD, Đấu thầu GXD, Thanh Quyết toán GXD, Quản lý chất lượng GXD. Dành cho người mua bản quyền
Kích để xem khóa học Dự toán công trình
Kích để xem khóa học Dự toán công trình
Kích để xem khóa học Chỉ huy trưởng công trường
Kích để xem giới thiệu phần mềm thanh quyết toán
Phần mềm quản lý chất lượng công trình QLCL GXD
Tìm hiểu khóa học Thanh Quyết toán GXD
Giới thiệu phần mềm Dự toán GXD dùng là thích, kích là sướng

Các bài viết mới

Back
Top