Tìm hiểu về lịch sử của một vấn đề thường rất hay và ý nghĩa. Có những việc người ta không hiểu được ở hiện tại, người ta tìm về quá khứ để xem nó hình thành như thế nào, phát triển ra sao và tại sao lại có những sự thay đổi như thế. Từ đó để hiểu sâu sắc thêm về vấn đề đó, cũng là cách để tránh những sai lầm của các bậc tiền bối đã mắc phải trong quá khứ (các bậc tiền bối sai lầm hay không sai lầm thì đừng ai khẳng định, cũng có thể họ không sai mà chính những người muốn cải tiến lại thành cải lùi). Bài tự nghiên cứu và viết, không sưu tầm. Còn xanh và non nên mong các bác ném đá nhẹ tay kẻo hỏng hết hàng họ của em nó 
1. Những văn bản đầu tiên được kể đến đương nhiên là series Điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng được ban hành kèm theo Nghị định số 177/CP năm 1994, tiếp đó được sửa đổi, bổ sung trong Nghị định số 42/CP năm 1996 và 92/CP năm 1997. Đây là những văn bản đầu tiên về Quản lý đầu tư xây dựng ở cấp Nghị định (Luật tổ chức Chính phủ được ban hành năm 1992 và 2 năm sau thì có văn bản cấp Nghị định quản lý về đầu tư và xây dựng). Các văn bản này cho thấy quan niệm về tính sở hữu tập thể và tư duy bao cấp vẫn còn thể hiện rất rõ trong đầu những người làm Luật ở thời điểm bấy giờ:
- Định nghĩa về “Người có thẩm quyền quyết định đầu tư”: là tổ chức hoặc cơ quan (không phải là cá nhân!!!) Nhà nước được Chính phủ giao quyền hoặc ủy quyền quyết định đầu tư – cơ chế chịu trách nhiệm tập thể đây rồi.
- “Quyết định đầu tư” là cụm từ chỉ được sử dụng cho dự án sử dụng vốn Nhà nước. Đối với các dự án không sử dụng vốn Nhà nước thì Chủ đầu tư phải xin và sẽ được “Cấp giấy phép đầu tư” (giấy này về sau được đổi tên thành “Giấy chứng nhận đầu tư” – nghe có vẻ đỡ nặng về xin-cho hơn).
- ” Các ngành, các địa phương không được tự ý chuyển vốn đầu tư đã được cấp hoặc cho vay theo kế hoạch từ dự án này sang dự án khác khi chưa có ý kiến đồng ý của Thủ tướng Chính phủ” – đây là quan điểm rất nặng về tính kế hoạch của nền kinh tế. Hiện nay, các ngành, các địa phương có thế linh hoạt chuyển vốn giữa các dự án để đảm bảo thực hiện mục tiêu đề ra.
- Tương ứng với Nghị định 42/1996 và 92/1997 là Nghị định 43/1996 và 93/1997 về Quy chế đấu thầu (nghĩa là các văn bản về quản lý đấu thầu được ban hành ngay sau khi có văn bản về quản lý đầu tư). Mức chỉ định thầu vào thời điểm này là 500 triệu (không phân biệt xây lắp, mua sắm hay tư vấn).
- Có quy định (1-2 câu ngắn trong Nghị định) có nhắc đến điều kiện năng lực đối với tổ chức (ko có điều kiện cho cá nhân) hành nghề xây dựng.
[FONT="]- Dự án nhóm A do Thủ tướng quyết định đầu tư, các dự án nhóm B, C do thủ trưởng cơ quan cấp Bộ, chủ tịch UBND tỉnh quyết định đầu tư. Riêng Hà Nội và TP.HCM, chủ tịch UBND TP được ủy quyền cho cấp quận, huyện quyết định đầu tư một số dự án.[/FONT]
[FONT="][/FONT]
[FONT="][/FONT]

1. Những văn bản đầu tiên được kể đến đương nhiên là series Điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng được ban hành kèm theo Nghị định số 177/CP năm 1994, tiếp đó được sửa đổi, bổ sung trong Nghị định số 42/CP năm 1996 và 92/CP năm 1997. Đây là những văn bản đầu tiên về Quản lý đầu tư xây dựng ở cấp Nghị định (Luật tổ chức Chính phủ được ban hành năm 1992 và 2 năm sau thì có văn bản cấp Nghị định quản lý về đầu tư và xây dựng). Các văn bản này cho thấy quan niệm về tính sở hữu tập thể và tư duy bao cấp vẫn còn thể hiện rất rõ trong đầu những người làm Luật ở thời điểm bấy giờ:
- Định nghĩa về “Người có thẩm quyền quyết định đầu tư”: là tổ chức hoặc cơ quan (không phải là cá nhân!!!) Nhà nước được Chính phủ giao quyền hoặc ủy quyền quyết định đầu tư – cơ chế chịu trách nhiệm tập thể đây rồi.
- “Quyết định đầu tư” là cụm từ chỉ được sử dụng cho dự án sử dụng vốn Nhà nước. Đối với các dự án không sử dụng vốn Nhà nước thì Chủ đầu tư phải xin và sẽ được “Cấp giấy phép đầu tư” (giấy này về sau được đổi tên thành “Giấy chứng nhận đầu tư” – nghe có vẻ đỡ nặng về xin-cho hơn).
- ” Các ngành, các địa phương không được tự ý chuyển vốn đầu tư đã được cấp hoặc cho vay theo kế hoạch từ dự án này sang dự án khác khi chưa có ý kiến đồng ý của Thủ tướng Chính phủ” – đây là quan điểm rất nặng về tính kế hoạch của nền kinh tế. Hiện nay, các ngành, các địa phương có thế linh hoạt chuyển vốn giữa các dự án để đảm bảo thực hiện mục tiêu đề ra.
- Tương ứng với Nghị định 42/1996 và 92/1997 là Nghị định 43/1996 và 93/1997 về Quy chế đấu thầu (nghĩa là các văn bản về quản lý đấu thầu được ban hành ngay sau khi có văn bản về quản lý đầu tư). Mức chỉ định thầu vào thời điểm này là 500 triệu (không phân biệt xây lắp, mua sắm hay tư vấn).
- Có quy định (1-2 câu ngắn trong Nghị định) có nhắc đến điều kiện năng lực đối với tổ chức (ko có điều kiện cho cá nhân) hành nghề xây dựng.
[FONT="]- Dự án nhóm A do Thủ tướng quyết định đầu tư, các dự án nhóm B, C do thủ trưởng cơ quan cấp Bộ, chủ tịch UBND tỉnh quyết định đầu tư. Riêng Hà Nội và TP.HCM, chủ tịch UBND TP được ủy quyền cho cấp quận, huyện quyết định đầu tư một số dự án.[/FONT]
[FONT="][/FONT]
[FONT="][/FONT]
Last edited by a moderator: