1. Về việc phân loại - cấp công trình xây dựng
Hỏi:
Công trình được xây dựng trong khu đất khu công nghiệp có diện tích 14.950 m2 với các hạng mục chính sau: (01 tầng trệt và 01 tầng lầu với diện tích đất xây dựng khoảng 3.500 m2).
- Diện tích sàn sử dụng Khối chính:
. Hầm : 4.837 m2
. Trệt : 5.104 m2
. Lầu : 4.829 m2
Cộng 14.770 m2
- Diện tích sử dụng khối phụ: 833,4 m2
(Nhà bảo vệ + Khu kỹ thuật + Trạm kiểm định + Nhà xe nhân viên).
Vậy xin hỏi công trình này thuộc loại công trình dân dụng cấp I hay là thuộc loại - cấp công trình nào?
Trả lời:
Sau khi nghiên cứu, Cục Giám định Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng có ý kiến như sau:
1. Điều 14 của Nghị định 16/2005/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý chất lượng công trình đã nêu: “Dự án đầu tư xây dựng công trình có thể gồm một hoặc nhiều loại công trình với một hoặc nhiều cấp công trình khác nhau theo quy định tại Nghị định quản lý chất lượng công trình xây dựng. Tuỳ theo quy mô, tính chất của công trình xây dựng, việc thiết kế xây dựng công trình có thể được thực hiện theo một bước, hai bước hoặc ba bước”.
Khoản 2 và khoản 3 Điều 5 của Luật Xây dựng đã quy định “Mỗi loại công trình được chia thành năm cấp bao gồm cấp đặc biệt, cấp I, cấp II, cấp III và cấp IV. Cấp công trình được xác định theo loại công trình căn cứ vào quy mô, yêu cầu kỹ thuật, vật liệu xây dựng công trình và tuổi thọ công trình xây dựng”. Tại Nghị định 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 của Chính phủ về quản lý chất lượng công trình xây dựng đã quy định việc phân cấp công trình chủ yếu dựa vào qui mô, tính phức tạp về kỹ thuật của công trình để phân cấp cho mỗi loại công trình. Như vậy, đối tượng phân cấp là công trình chưa không phải “dự án”.
Điều cần nhấn mạnh rằng, việc xác định cấp công trình là dựa theo quy mô của từng công trình thuộc dự án chứ không xác định theo quy mô của dự án. Theo quy mô và tính chất thì dự án đã được phân thành: dự án quan trọng quốc gia, các dự án còn lại được phân thành 3 nhóm A, B, C.
2. Do nội dung câu hỏi chưa rõ ràng nên không thể xác định được cấp công trình cho từng hạng mục công trình (công trình thành phần của Dự án). Bởi vậy,cần dựa vào các thông số của từng hạng mục công trình trong từng khối để có cơ sở xác định cấp công trình bao gồm: loại công trình (nhà thí nghiệm, xưởng sản xuất, nhà bảo vệ, trạm kiểm định, nhà để xe …), số tầng, tổng diện tích sàn, kích thước nhịp. Việc xác định cấp công trình theo tổng diện tích sàn của khối chính (14.770 m2) và khối phụ (833,4 m2) là không phù hợp với các quy định đã nêu tại khoản 1 của văn bản này.
2. Bộ Xây dựng trả lời về việc tính chi phí thiết kế, chi phí giám sát thi công
Hỏi:
”Tôi đang làm dự toán cho công trình đường giao thông, công trình này được chia ra làm nhiều gói thầu. Vậy khi tính chi phí cho thiết kế, giám sát thi công... thì tôi phải tính trên giá trị xây lắp của cả công trình hay trên giá trị xây lắp của gói thầu mà tôi đang làm?”.
Trả lời:
Sau khi nghiên cứu, Vụ Kinh tế Tài chính có ý kiến như sau:
Theo quy định hiện nay, chi phí thiết kế được tính bằng tỷ lệ % của chi phí xây dựng hoặc chi phí thiết bị chưa có thuế giá trị gia tăng trong dự toán xây dựng công trình được duyệt. Chi phí giám sát thi công xây dựng tính bằng tỷ lệ % của chi phí xây dựng chưa có thuế giá trị gia tăng trong dự toán công trình hoặc dự toán gói thầu được duyệt.
Như vậy, với công trình của bạn chi phí thiết kế tính trên giá trị dự toán trước thuế của cả công trình, còn chi phí giám sát xây dựng được tính trên giá trị gói thầu được duyệt.