Tiêu chuẩn ISO 12911:2023 Khung tham chiếu cho việc lập chỉ dẫn kỹ thuật triển khai BIM

nguyentheanh

Tác giả Dự toán GXD
Thành viên BQT
Tham gia
6/7/07
Bài viết
4.595
Điểm thành tích
113
Website
giaxaydung.vn
Tiêu chuẩn ISO 12911:2023 có tên tiếng Anh: "Organization and digitization of information about buildings and civil engineering works, including building information modelling (BIM) — Framework for specification of BIM implementation".

Tạm chuyển nghĩa như sau: Tiêu chuẩn ISO 12911:2023 “Tổ chức và số hóa thông tin về các công trình xây dựng và công trình dân dụng, bao gồm mô hình thông tin xây dựng (BIM) - Khung tham chiếu cho việc lập chỉ dẫn kỹ thuật triển khai BIM”.

Phiên bản ISO 12911:2023 thứ nhất, được xuất bản vào năm 2023.

Tóm tắt nội dung:

Tiêu chuẩn này thiết lập một khung tham chiếu để đưa ra các quy cách cho việc ủy nhiệm và triển khai nội bộ mô hình thông tin xây dựng (BIM) trong suốt các giai đoạn giao nhận và vận hành. Tài liệu này xác định một phương pháp tiếp cận có cấu trúc nhằm khuyến khích sự rõ ràng trong quá trình phát triển, quản lý và kiểm tra, dành cho các tổ chức phát triển và áp dụng các quy cách này.

Tài liệu này không cung cấp nội dung cụ thể, nhưng có đưa ra các ví dụ minh họa. ISO 12911:2023 có thể áp dụng cho các công trình xây dựng, hệ thống cơ sở hạ tầng, các cơ sở vật chất và các khu vực cảnh quan được quản lý, bất kể quy mô hay độ phức tạp (của dự án, công trình).

Vòng đời của tiêu chuẩn:
- Trước đây: ISO/TS 12911:2012
- Hiện tại: ISO 12911:2023

Giới thiệu thêm về tiêu chuẩn ISO/TS 12911:2012

Tiêu chuẩn ISO / TS 12911: 2012 nhằm hỗ trợ các tổ chức trong việc thực hiện BIM một cách hiệu quả hơn, đảm bảo tính đồng bộ và chất lượng trong quá trình triển khai.

ISO / TS 12911: 2012 thiết lập một khuôn khổ để cung cấp các chỉ dẫn kỹ thuật cho việc vận hành mô hình thông tin công trình (BIM).

Nó có thể áp dụng cho bất kỳ phạm vi mô hình hóa tòa nhà và cơ sở vật chất liên quan đến công trình xây dựng, từ danh mục tài sản tại một địa điểm hoặc nhiều địa điểm, đến các tài sản tại một công trình nhỏ và tại bất kỳ hệ thống cấu thành, hệ thống con, thành phần hoặc yếu tố nào. Nó có thể áp dụng cho bất kỳ loại tài sản nào, bao gồm hầu hết cơ sở hạ tầng và công trình công cộng, thiết bị và vật liệu. Các quy trình BIM có thể áp dụng trong toàn bộ vòng đời của danh mục đầu tư, cơ sở hoặc thành phần, có thể kéo dài từ khi bắt đầu sử dụng cho đến khi kết thúc sử dụng. Người sử dụng chính của khung là người quản lý thông tin, người sử dụng khung để hỗ trợ việc cấu trúc tài liệu hướng dẫn BIM cấp quốc tế, quốc gia - dự án hoặc cấp cơ sở. Khung cũng có thể được sử dụng cho hướng dẫn BIM do các nhà cung cấp ứng dụng cung cấp.

Tài liệu tham khảo​

Các tài liệu viện dẫn sau đây là cần thiết cho việc áp dụng tiêu chuẩn ISO / TS 12911: 2012. Đối với tài liệu ghi năm chỉ bản được nêu áp dụng. Đối với các tài liệu tham khảo không ghi ngày tháng, phiên bản mới nhất của tài liệu được tham chiếu (bao gồm mọi sửa đổi) sẽ được áp dụng.

- ISO 6707-1, Xây dựng và công trình dân dụng - Từ vựng - Phần 1: Thuật ngữ chung
- ISO 29481-1: 2010, Mô hình hóa thông tin tòa nhà - Sổ tay cung cấp thông tin - Phần 1: Phương pháp và định dạng

Đính kèm bài là ISO / TS 12911: 2012 tôi sưu tầm được chia sẻ lại bạn đọc quan tâm. Còn ISO 12911:2023 bạn phải đặt mua, ứng dụng BIM phải thay đổi từ tư duy "chịu đầu tư, bỏ tiền mua, sử dụng bản quyền...".

Công ty CP Giá Xây Dựng là đơn vị đi đầu trong việc nghiên cứu Tiêu chuẩn ISO 12911:2023 tư vấn, ứng dụng thiết lập quy cách triển khai (BIM) tại Việt Nam.
Mời các bạn tham gia group: https://facebook.com/groups/schoolbim

Tác giả: Nguyễn Thế Anh, CEO Cty GXD, đăng trên diễn đàn giaxaydung.vn ngày 21/08/2024
 

File đính kèm

  • gxd.vn-ISO+TS+12911-2012.pdf
    581,2 KB · Đọc: 7

nguyentheanh

Tác giả Dự toán GXD
Thành viên BQT
Tham gia
6/7/07
Bài viết
4.595
Điểm thành tích
113
Website
giaxaydung.vn
Trao đổi thêm về tên gọi và từ specification trong tên của ISO 12911: 2023 "Framework for specification of BIM implementation".

Specification tại Việt Nam thường được dịch là: "Chỉ dẫn kỹ thuật", "Thông số kỹ thuật", "Tham số kỹ thuật" hoặc dùng luôn là Spec. Vậy tên gọi của ISO 12911: 2023 dùng specification theo nghĩa nào hợp lý?

Dựa trên đoạn giới thiệu trong tiêu chuẩn ISO 12911:2023, đặc biệt trong bối cảnh áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế như ISO 19650 và ISO 29481, chúng ta có thể rút ra rằng thuật ngữ "specification" liên quan chặt chẽ đến việc định nghĩa các yêu cầu kỹ thuật, tiêu chuẩn và cách thức triển khai cụ thể trong quá trình quản lý thông tin.

Trong ngữ cảnh tiêu chuẩn ISO 12911:2023, thuật ngữ "specification" mang tính chất hệ thống và kiểm tra được, vì vậy nó cần thể hiện rõ các yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan. Cụ thể, "technical specification" ở đây không chỉ đơn thuần là thông số kỹ thuật (parameter) mà còn là một dạng chỉ dẫn kỹ thuật hoặc yêu cầu kỹ thuật, trong đó có thể bao gồm các yếu tố như cấu trúc tài liệu, kiểm soát quản lý thông tin, và nội dung của các "information container."

Do đó, để dịch chính xác và phù hợp với ngữ cảnh chuyên ngành trong lĩnh vực BIM và quản lý thông tin xây dựng, từ "specification" có thể được dịch là "Chỉ dẫn kỹ thuật" hoặc "Yêu cầu kỹ thuật" tùy theo ngữ cảnh cụ thể. Dựa vào ngữ cảnh tổng quát trong đoạn giới thiệu, "Chỉ dẫn kỹ thuật" có thể là lựa chọn thích hợp nhất vì nó bao hàm cả hướng dẫn và tiêu chuẩn cụ thể cho việc triển khai BIM.

Vì vậy, cụm từ "Framework for specification of BIM implementation" có thể được dịch là:

"Khung tham chiếu cho việc lập chỉ dẫn kỹ thuật triển khai BIM".

Hoặc

"Khung tham chiếu cho việc quy định kỹ thuật triển khai BIM" nếu muốn nhấn mạnh hơn vào khía cạnh quy định các yêu cầu kỹ thuật.

Và do đó tác giả đề xuất cho Việt Nam là Khung tham chiếu cho việc lập chỉ dẫn kỹ thuật triển khai BIM.
Tác giả: Nguyễn Thế Anh, CEO Cty GXD, đăng trên diễn đàn giaxaydung.vn ngày 24/08/2024
 

nguyentheanh

Tác giả Dự toán GXD
Thành viên BQT
Tham gia
6/7/07
Bài viết
4.595
Điểm thành tích
113
Website
giaxaydung.vn
Trên iso.org giới thiệu về ISO 12911: 2023 có đoạn "It is applicable to buildings, infrastructure, facilities and managed landscapes, of any size or complexity.". Ở trên tôi tạm dịch là: "ISO 12911:2023 có thể áp dụng cho các công trình xây dựng, hệ thống cơ sở hạ tầng, các cơ sở vật chất và các khu vực cảnh quan được quản lý, bất kể quy mô hay độ phức tạp của dự án, công trình xây dựng."

Cụm từ managed landscapes dịch là các khu vực cảnh quan được quản lý vẫn thấy có gì đó khó hiểu. Vì vậy, tôi nghiên cứu cách hiểu của nước ngoài làm rõ thêm theo cách hiểu của người Việt Nam như sau:

"Managed landscapes" là một khái niệm liên quan đến các khu vực cảnh quan mà con người đã can thiệp và quản lý một cách có hệ thống. Cụ thể, nó bao gồm những khu vực ngoài trời được thiết kế và bảo trì để phục vụ các mục đích nhất định, như thẩm mỹ, môi trường, hoặc sử dụng chức năng. Một số ví dụ điển hình bao gồm:

- Công viên và các khu vườn công cộng: Những khu vực này được thiết kế và duy trì bởi các cơ quan quản lý công cộng hoặc tư nhân để phục vụ cộng đồng. Chúng thường bao gồm cây xanh, thảm cỏ, lối đi và các khu vực giải trí khác. Việc quản lý bao gồm cắt tỉa cây, bảo dưỡng cảnh quan và kiểm soát sự phát triển của cây cối để duy trì vẻ đẹp và chức năng của khu vực.

- Khu vực xanh trong các khu đô thị: Các khu vực như dải phân cách cây xanh, vườn trên sân thượng, hoặc các khu vực cảnh quan trong khu dân cư hoặc thương mại đều cần được quản lý. Việc quản lý có thể bao gồm việc tưới nước, bón phân, cắt tỉa cây và bảo vệ khỏi các yếu tố tự nhiên hoặc con người gây hại.

- Cảnh quan công nghiệp: Bao gồm các khu vực cây xanh, hồ nước, hoặc các khu vực trồng cây được bố trí trong các khu công nghiệp hoặc xung quanh các tòa nhà thương mại để tạo môi trường làm việc thân thiện và bảo vệ môi trường. Những khu vực này thường cần được quản lý chặt chẽ để đảm bảo an toàn và thẩm mỹ.

- Khu vực cảnh quan tự nhiên được bảo tồn: Các khu vực như rừng quốc gia, khu bảo tồn sinh thái, hoặc các vùng đất ngập nước, nơi có sự quản lý của con người nhằm duy trì sự cân bằng sinh thái và bảo tồn thiên nhiên. Quản lý có thể bao gồm việc kiểm soát sinh vật xâm hại, bảo vệ hệ sinh thái và khôi phục các khu vực bị tổn thương.

Ý nghĩa của "managed landscapes":
"Managed landscapes" nhấn mạnh rằng cảnh quan không chỉ đơn thuần là tự nhiên mà còn là sản phẩm của sự can thiệp và quản lý có chủ đích của con người. Những khu vực này được chăm sóc và bảo dưỡng theo kế hoạch, nhằm đáp ứng các mục tiêu cụ thể như bảo vệ môi trường, tạo không gian sống chất lượng, hoặc duy trì chức năng của các khu vực công cộng và tư nhân.

Trong bối cảnh tiêu chuẩn ISO, cụm từ này nhấn mạnh sự áp dụng của tiêu chuẩn cho các khu vực mà cảnh quan được quản lý chặt chẽ, chứ không chỉ là các công trình xây dựng hay cơ sở hạ tầng.
 

nguyentheanh

Tác giả Dự toán GXD
Thành viên BQT
Tham gia
6/7/07
Bài viết
4.595
Điểm thành tích
113
Website
giaxaydung.vn
Về cụm từ buildings and civil engineering works trong tên của Tiêu chuẩn ISO 12911:2023: Organization and digitization of information about buildings and civil engineering works, including building information modelling (BIM) — Framework for specification of BIM implementation.

Có người (hoặc sử dụng Google Translate hoặc ChatGPT) sẽ dịch buildings and civil engineering works tòa nhà và công trình kỹ thuật dân dụng.
Điều này có thể sẽ giới hạn phạm vi áp dụng của ISO 12911:2023 ở phạm vi hẹp hơn. Bởi vì Buildings dịch là Tòa nhà tức là Tiêu chuẩn chỉ áp dụng cho tòa nhà thuộc vào loại hình công trình dân dụng hay là tiêu chuẩn này áp dụng chung cho các loại công trình (ở Việt Nam chia thành công trình dân dụng, công trình công nghiệp, công trình giao thông, công trình nông nghiệp và phát triển nông thôn, công trình hạ tầng - trong khi có thể ở nhiều nước phân loại tất cả các loại công trình này là công trình dân dụng (civil engineerings works).
Tác giả cho rằng Buildings and civil engineering works dịch là các công trình xây dựng và công trình kỹ thuật dân dụng chưa bao quát ý nghĩa, tinh thần của tiêu chuẩn vì phạm vi áp dụng có thể rộng hơn. Có ý kiến cho rằng không nên dịch sang tiếng Việt, cứ giữ tiếng Anh để sử dụng, điều này cũng chưa hợp lý, bởi chính ISO cũng có nhiều lời khuyên đây là khung, nên địa phương hóa cho phù hợp với từng đất nước, khu vực...

Để dịch chính xác và bao quát cụm từ "buildings and civil engineering works" trong ngữ cảnh các tiêu chuẩn quốc tế về quản lý thông tin xây dựng, cần nghiên cứu kỹ nội dung Tiêu chuẩn và ứng dụng vào thực tế. tôi đề xuất dịch như sau:

"Các công trình kiến trúc và công trình kỹ thuật xây dựng" hoặc ngắn gọn là "Công trình xây dựng" bao hàm hết các loại công trình tại Việt Nam:

- "Công trình kiến trúc" bao gồm các tòa nhà và các cấu trúc liên quan đến xây dựng dân dụng như nhà ở, công trình công cộng, và công trình văn hóa.
- "Công trình kỹ thuật xây dựng" bao gồm các hạ tầng kỹ thuật như cầu đường, đập nước, hệ thống cấp thoát nước, công trình giao thông, và công trình nông nghiệp.

Cách dịch này đảm bảo bao hàm cả các công trình kiến trúc (như tòa nhà, công trình dân dụng) và các công trình kỹ thuật (như cầu, đường, đập, hệ thống kỹ thuật khác), phù hợp với tinh thần của tiêu chuẩn ISO mà không làm hạn chế phạm vi áp dụng của tiêu chuẩn.

Thêm nữa, "including" không chỉ đơn thuần có nghĩa là "bao gồm" mà còn nhấn mạnh rằng BIM là một phần quan trọng và không thể tách rời của quá trình này. Do đó, từ "including" ở đây không chỉ liệt kê mà còn làm nổi bật tầm quan trọng của BIM trong ngữ cảnh tổng thể của việc quản lý thông tin công trình. Dịch từ này cần giúp làm rõ rằng BIM không chỉ là một phần thêm vào mà là một yếu tố quan trọng trong quá trình tổ chức và số hóa thông tin.

Vậy tên Tiêu chuẩn tác giả đề xuất là: Tiêu chuẩn ISO 12911:2023 “Tổ chức và số hóa thông tin về các công trình xây dựng, bao gồm mô hình thông tin công trình (BIM) - Khung tham chiếu cho việc lập chỉ dẫn kỹ thuật triển khai BIM”.

Tác giả: Nguyễn Thế Anh, CEO Cty GXD, đăng trên diễn đàn giaxaydung.vn ngày 24/08/2024
 

Top