Bạn nào có tài liệu gia cố nền đất yếu bằng cọc ximăng đất cho mình với.
Chân thành cám ơn!
CỌC XI MĂNG ĐẤT
1. Cọc XMĐ là một trong những giải pháp xử lý nền đất yếu với khả năng ứng dụng tương đối rộng rãi như: Làm tường hào chống thấm cho đê đập, gia cố nền móng cho các công trình xây dựng, sửa chữa thấm mang cống và đáy cống, ổn định tường chắn, chống trượt mái dốc, gia cố đất yếu xung quanh đường hầm, gia cố nền đường, mố cầu dẫn..... So với một số giải pháp xử lý nền hiện có, công nghệ cọc XMĐ có ưu điểm là khả năng xử lý sâu (đến 50m), thích hợp với các loại đất yếu (từ cát thô cho đến bùn yếu), thi công được cả trong điều kiện nền ngập sâu trong nước hoặc điều kiện hiện trường chật hẹp, trong nhiều trường hợp đã đưa lại hiệu quả kinh tế rõ rệt so với các giải pháp xử lý khác.
2. Các kiểu bố trí cột XMĐ: Có thể bố trí kiểu đơn, kiểu đôi, kiểu ba, kiểu lưới, kiểu tường, kiểu nhóm cọc…
3. Công nghệ thi công: Hiện nay phổ biến hai công nghệ thi công cọc XMĐ là: Công nghệ trộn khô (Dry Jet Mixing) và Công nghệ trộn ướt (Wet Mixing hay còn gọi là Jet-grouting).
Hiện nay trên thế giới đã phát triển ba công nghệ Jet-grouting: đầu tiên là công nghệ S, tiếp theo là công nghệ T, và gần đây là công nghệ D.
+ Công nghệ đơn pha S: Công nghệ đơn pha tạo ra các cọc XMĐ có đường kính vừa và nhỏ 0,4 - 0,8m. Công nghệ này chủ yếu dùng để thi công nền đất đắp, cọc…..
+ Công nghệ hai pha D: Công nghệ hai pha tạo ra các cọc XMĐ có đường kính từ 0,8 -1,2m. Công nghệ này chủ yếu dùng để thi công các tường chắn, cọc và hào chống thấm.
+ Công nghệ ba pha T: Phụt ba pha là phương pháp thay thế đất mà không xáo trộn đất. Công nghệ T sử dụng để làm các cọc, các tường ngăn chống thấm, có thể tạo ra cột Soilcrete đường kính đến 3m
4.Thực tế ứng dụng
Nước ứng dụng công nghệ DMM nhiều nhất là Nhật Bản và các nước vùng Scandinaver. Theo thống kê của hiệp hội CDM (Nhật Bản), tính chung trong giai đoạn 80-96 có 2345 dự án, sử dụng 26 triệu m3 BTĐ. Riêng từ 1977 đến 1993, lượng đất gia cố bằng DMM ở Nhật vào khoảng 23,6 triệu m3 cho các dự án ngoài biển và trong đất liền, với khoảng 300 dự án. Hiện nay hàng năm thi công khoảng 2 triệu m3. Tại Trung Quốc, công tác nghiên cứu bắt đầu từ năm 1970, tổng khối lượng xử lý bằng DMM ở Trung Quốc cho đến nay vào khoảng trên 1 triệu m3. Tại Châu Âu, nghiên cứu và ứng dụng bắt đầu ở Thụy Điển và Phần Lan bắt đầu từ năm 1967. Năm 1974, một đê đất thử nghiệm (6m cao 8m dài) đã được xây dựng ở Phần Lan sử dụng cột vôi đất, nhằm mục đích phân tích hiệu quả của hình dạng và chiều dài cột về mặt khả năng chịu tải.
Tại Việt Nam, từ năm 2002 đã có một số dự án bắt đầu ứng dụng cọc XMĐ vào xây dựng các công trình trên nền đất, cụ thể như: Dự án cảng Ba Ngòi (Khánh Hòa) đã sử dụng 4000m cọc XMĐ có đường kính 0,6m thi công bằng trộn khô; xử lý nền cho bồn chứa xăng dầu đường kính 21m, cao 9m ở Cần Thơ. Năm 2004 cọc XMĐ được sử dụng để gia cố nền móng cho nhà máy nước huyện Vụ Bản (Hà Nam), xử lý móng cho bồn chứa xăng dầu ở Đình Vũ (Hải Phòng), các dự án trên đều sử dụng công nghệ trộn khô, độ sâu xử lý trong khoảng 20m. Tháng 5 năm 2004, các nhà thầu Nhật Bản đã sử dụng Jet - grouting để sửa chữa khuyết tật cho các cọc nhồi của cầu Thanh Trì (Hà Nội). Năm 2005, một số dự án cũng đã áp dụng cọc XMĐ như: dự án thoát nước khu đô thị Đồ Sơn - Hải Phòng, dự án sân bay Cần Thơ, dự án cảng Bạc Liêu….
Năm 2004, Viện Khoa học Thủy lợi đã tiếp nhận chuyển giao công nghệ khoan phụt cao áp (Jet-grouting) từ Nhật Bản. Đề tài đã ứng dụng công nghệ và thiết bị này trong nghiên cứu sức chịu tải của cọc đơn và nhóm cọc, khả năng chịu lực ngang, ảnh hưởng của hàm lượng XM đến tính chất của XMĐ,... nhằm ứng dụng cọc XMĐ vào xử lý đất yếu, chống thấm cho các công trình thuỷ lợi. Nhóm đề tài cũng đã sửa chữa chống thấm cho Cống Trại (Nghệ An), cống D10 (Hà Nam), Cống Rạch C (Long An)...
Tại thành phố Đà Nẵng, cọc XMĐ được ứng dụng ở Plazza Vĩnh Trung dưới 2 hình thức: Làm tường trong đất và làm cọc thay cọc nhồi.
5. Tính toán cọc XMĐ: 3 quan điểm
- Quan điểm xem cọc XMĐ làm việc như cọc.
- Quan điểm xem các cọc và đất làm việc đồng thời.
- Tính toán theo cả 2 quan điểm trên.
6. Trình tự thi công cọc XMĐ
Thi công cải tạo nền đất yếu bằng cọc XMĐ có thể theo các bước như sau:
- Định vị và đưa thiết bị thi công vào vị trí thiết kế
- Khoan hạ đầu phun trộn xuống đáy khối đất cần gia cố
- Bắt đầu quá trình khoan trộn và kéo dần đầu khoan lên đến miệng lỗ
- Đóng tắt thiết bị thi công và chuyển sang vị trí mới.
7. Công tác thí nghiệm
Để thiết kế cọc XMĐ ngoài những thí nghiệm khoan khảo sát hiện trường nên có một số thí nghiệm kèm theo như sau: Thí nghiệm xuyên tĩnh có đo áp lực nước lỗ rỗng CPTU; Thí nghiệm nén cố kết; Thí nghiệm hỗn hợp xi măng đất (để xác định hàm lượng xi măng sử dụng cho gia cố); Thí nghiệm cắt cánh; Thí nghiệm trộn đất tại chỗ với xi măng theo tiêu chuẩn của Thụy Điển…
Sau khi thi công ngoài hiện trường cần có một số thí nghiệm hiện trường như sau: Thí nghiệm xuyên cắt tiêu chuẩn, kết quả thí nghiệm sức kháng cắt được so sánh với kết quả thí nghiệm trong phòng, giá trị hàm lượng xi măng được chấp thuận là giá trị sao cho cường độ kháng cắt của cọc tương đương với kết quả phòng thí nghiệm; Thí nghiệm nén ngang; Thí nghiệm nén tĩnh một cột; Thí nghiệm đào cột; Thí nghiệm chất tải trên một cột; Thí nghiệm chất tải toàn phần; Đo lún trên hiện trường; Đo áp lực nước trong khối gia cố; Đo độ lún theo độ sâu của tầng đất của khối gia cố……
8. Kết luận và kiến nghị
Công nghệ trộn sâu đã được áp dụng khá phổ biến trên thế giới nhưng chỉ mới được áp dụng ở nước gần đây. Các công trình xử lý nền đất yếu bằng cọc XMĐ ở nước ta chủ yếu là bồn chứa, cảng, đập, cống, sửa chữa cọc khoan nhồi… chưa có công trình nền đường đắp hoặc đường đầu cầu áp dụng công nghệ này. Thực tế với các nền đường đắp cao trên nền đất yếu; công trình yêu cầu thời gian thi công ngắn; độ lún còn lại nhỏ; yêu cầu đất nền cố kết nhanh; tiết kiệm vật liệu đắp khi vật liệu này khan hiếm thì giải pháp xử lý nền bằng cọc XMĐ tỏ ra khá hiệu quả. Vì vậy trong thời gian đến chúng ta nên mạnh dạn ứng dụng công nghệ này để xử lý nền đắp trên đất yếu nhất là các đoạn đường đầu cầu.
- Về quan điểm tính toán khi thiết kế: kiến nghị tính theo cách tính của Viện Kỹ thuật châu Á (AIT) là Tính toán theo cả 2 quan điểm trên.
- Để ứng dụng rộng rãi công nghệ cọc XMĐ ở nước ta phải sớm ban hành Quy trình thiết kế, thi công và nghiệm thu cọc XMĐ.
- Không áp dụng các kết quả thí nghiệm của dự án này cho dự án khác, thận trọng khi áp dụng các kết quả nghiên cứu đã công bố ở nước ngoài.
- Về công tác thí nghiệm cần có những lưu ý sau:
+ Phương pháp tạo mẫu ảnh hưởng nhiều đến kết quả thí nghiệm.
+ Thiết bị thí nghiệm quyết định nhiều đến độ chính xác của các số liệu đo. Khác với các loại đất thông thường, vật liệu ximăng-đất đòi hỏi thiết bị đo phải có độ chính xác cao nhằm hạn chế đến mức tối thiểu các sai số, nên sử dụng các thiết bị đo biến dạng cục bộ, tức là đo biến dạng trực tiếp trên mẫu, không đo phía ngoài buồng áp suất để tránh các sai số.
+ Ảnh hưởng của tải trọng ngang (ví dụ tải trọng động đất), điều kiện thoát nước hay không thoát nước đối với đất nền gia cố cọc XMĐ chưa được nghiên cứu nhiều.
Có vài tài liệu về cọc ximang đất gửi bạn tham khảo :x
LINK THAM KHẢO
FILE TÀI LIỆU