Sau khi nghiên cứu nội dung Công văn số 551/BXD-KTXD ngày 2/4/2013 của Bộ Xây dựng, mình có một số ý kiến như sau:
1. Nội dung Công văn không trái Luật
Theo Thông tư số 04/2010/TT-BXD ngày 26/5/2010 của Bộ Xây dựng (Thông tư này hướng dẫn Nghị định số 112/2009/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng) thì Chi phí nhân công được tính như sau:
NC = B x gNC
Trong đó:
- B: lượng hao phí lao động tính bằng ngày công trực tiếp theo cấp bậc bình quân cho một đơn vị khối lượng công tác xây dựng trong định mức dự toán xây dựng công trình;
- gNC: đơn giá ngày công của công nhân trực tiếp xây dựng được xác định theo mặt bằng thị trường lao động phổ biến của từng khu vực, tỉnh, thành phố.
2. Một số vấn đề mình thắc mắc:
- (các thành phần cấu thành nên chi phí máy trong đó có tiền lương thợ điều khiển máy - theo Thông tư số 06/2010/TT-BXD). Nếu chi phí tiền lương của thợ điều khiển máy theo đơn giá của tỉnh đã lập trên mức lương tối thiểu tại Nghị định số 70/2011/NĐ-CP thấp hơn so với mức lương thực tế trên địa bàn, nhưng chi phí nhân công lại phù hợp với mức lương trên địa bàn thì trong đơn giá phải sử dụng hai loại lương tối thiểu vùng cho một vùng (1 cho chi phí máy, 1 cho chi phí nhân công)?
- Việc khảo sát mức giá thực tế trên địa bàn: Việc này triển khai thế nào? Nếu o áp dụng chung một mức lương tối thiểu thì mỗi tháng hay mỗi quý đi khảo sát một lần? UBND tỉnh thực hiện theo nội dung Công văn số 551/BXD-KTXD để tính dự toán công trình sẽ phải ban hành 3 thông báo hàng tháng, bao gồm: Thông báo giá vật liệu xây dựng, Thông báo giá nhân công, Thông báo giá ca máy. (Khi xây dựng Thông báo phải cho từng huyện, từng vùng trong huyện)
- Bộ Xây dựng không hề hướng dẫn về các nội dung như: Tại một số địa phương chi phí nhân công được xây dựng trong đơn giá (Ngay cả khi áp dụng mức lương tối thiểu vùng tại Nghị định số 103/2012/NĐ-CP) vẫn thấp hơn mức giá nhân công thực tế trên thị trường khi đấy lấy mức giá thực tế để tính toán hay điều chỉnh chi phí nhân công trên cơ sở Nghị định số 103/2012/NĐ-CP như mục 2 của Công văn? Chi phí nhân công (tính théo Nghị định số 70/2011/NĐ-CP) vẫn cao hơn mức giá nhân công thự tế (mặc dù điều này khó có thể xẩy ra) thì áp dụng thế nào?
- Một số địa phương đã ban hành hướng dẫn điều chỉnh dự toán xdct theo Nghị định số 103/2012/NĐ-CP, thì có phải khảo sát lại mức giá nhân công thực tế để hướng dẫn lại không? Nếu khảo sát mức giá thực tế đã phù hợp với chi phí nhân công (xây dựng theo NĐ số 70/2012/NĐ-CP) thì điều chỉnh thế nào đôí với các hợp đồng xây lắp trọn gói và đơn giá cố định? (công trình sử dụng vốn Ngân sách)? Việc tính toán chi phí xây dựng, giá gói thầu xây lắp đã áp dụng hướng dẫn điều chỉnh theo Nghị định 103 là sai à? Bây giờ lại đi điều chỉnh lại giá trị trúng thầu hay xử lý thế nào đối với các loại hợp đồng trên? Các gói thầu xây lắp, tư vấn đã quyết toán xử lý thế nào?
3. Theo ý kiến chủ quan của mình: nội dung văn bản còn một số vấn đề thiếu sót:
- Việc sử dụng đơn giá xdct trên cơ sở căn cứ pháp lý là Nghị định số 70/2011/NĐ-CP mà không điều chỉnh trong khi đó Nghị định này không còn hiệu lực là không đúng. Đơn giá tại các địa phương chưa ban hành theo NĐ 70 mà theo mục 1 của Công văn 551 là nếu tính với NĐ 70 đã phù hợp với thực tế thì bây giờ lại ban hành hướng dẫn điều chỉnh dự toán theo Nghị định 70 là không đúng.
- Công văn số 551/BXD-KTXD thừa nhận tại một số địa phương chi phí nhân công (nếu tính theo mức lương tối thiểu vùng tại Nghị định số 103/NĐ-CP) là cao hơn mức giá nhân công thực tế (vì thực tế lại phù hợp với chi phí tính theo Nghị định 70), nghĩa là:
Chi phí nhân công được tính như sau:
+ Chi phí nhân công trong đơn giá các tỉnh tính toán = lượng hao phí lao động x tiền lương ngày
+ Tiền lương ngày = lương tháng/số ngày lao động (lương tháng = lương cơ bản + phụ cấp)
+ Lương cơ bản = lương tối thiểu x hệ số lương (phụ cấp = lương tối thiểu vùng x hệ số phụ cấp a + lương tối thiểu chung x hệ số phụ cấp b)
Nếu mức giá nhân công tại địa phương đó thấp hơn chi phí nhân công (tính theo NĐ 103) (người lao động làm việc trong các doanh nghiệp hoạt động theo Luật lao động vẫn phải hưởng đủ các chế độ theo pháp luật hiện hành) thì mặc nhiên coi lương tối thiểu tại địa phương đó thấp hơn lương tối thiểu vùng quy định theo NĐ 103. Trong khi đó: "Mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định là mức lương thấp nhất làm cơ sở để doanh nghiệp và người lao động thỏa thuận tiền lương trả cho người lao động, nhưng phải bảo đảm mức lương tính theo tháng trả cho người lao động chưa qua đào tạo làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường, bảo đảm đủ số ngày làm việc tiêu chuẩn trong tháng và hoàn thành định mức lao động hoặc công việc đã thỏa thuận, không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định." Vậy điều này là không phù hợp.
Đây là một vài ý kiến cá nhân. Nếu có gì không đúng và thiếu sót (do kiến thức còn hạn hẹp) mong các bạn thông cảm và đóng góp ý kiến.