H
Hugolina
Guest
Về biên bản nghiệm thu khối lượng công việc hoàn thành
Hỏi:
Tại điểm a khoản 1 điều 26 Nghị định 99/2007/NĐ-CP có nêu về Hồ sơ thanh toán hợp đồng xây dựng như sau:
"... Hồ sơ thanh toán do bên nhận thầu lập bao gồm các tài liệu chủ yếu sau:
a) Biên bản nghiệm thu khối lượng thực hiện trong giai đoạn thanh toán có xác nhận của đại diện nhà thầu, Bên giao thầu và tư vấn giám sát (nếu có)".
Nhưng tại điểm 2.8.7 mục II của Thông tư 06/2007/TT-BXD lại nêu về Hồ sơ thanh toán hợp đồng xây dựng như sau:
"... Biên bản nghiệm thu khối lượng công việc hoàn thành (biên bản nghiệm thu chất lượng, khối lượng) tương ứng với khối lượng theo hợp đồng đó ký cho giai đoạn thanh toán có xác nhận của đại diện bên giao thầu hoặc đại diện nhà tư vấn (nếu có) và đại diện bên nhận thầu;"
Đề nghị Cục Giám định Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng cho biết rõ: Biên bản nghiệm thu khối lượng công việc hoàn thành (biên bản nghiệm thu chất lượng, khối lượng) hoặc Biên bản nghiệm thu khối lượng thực hiện trong giai đoạn thanh toán, cần thiết phải có xác nhận của đại diện các bên nào vì Nghị định 99/2007/NĐ-CP dùng từ " và tư vấn giám sát (nếu có)" còn ở Thông tư 06/2007/TT-BXD lại dùng từ "hoặc tư vấn giám sát (nếu có)".
Trả lời:
Trong các Biên bản nghiệm thu công việc xây dựng (mẫu phụ lục 4A), nghiệm thu bộ phận công trình, giai đoạn xây dựng (mẫu phụ lục 5A) và nghiệm thu hạng mục công trình và công trình hoàn thành để đưa vào sử dụng (mẫu Phụ lục 7) của Nghị định 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 của Chính phủ về quản lý chất lượng công trình xây dựng không yêu cầu phải có khối lượng cụ thể của các công việc thực hiện là vì các lý do sau:
a) Việc tính toán cụ thể khối lượng các công việc thực hiện không thể tính ngay được tại thời điểm nghiệm thu. Nếu yêu cầu phải tính toán tại chỗ thì rất khó chính xác và sẽ gây khó khăn cho chủ đầu tư và nhà thầu thi công xây dựng trong việc thanh toán.
b) Việc không nêu cụ thể khối lượng công việc thực hiện không có nghĩa là không nghiệm thu khối lượng đối tượng được nghiệm thu. Trong các mẫu Biên bản nêu trên luôn luôn yêu cầu ghi rõ tên công việc, bộ phận công trình xây dựng, giai đoạn thi công xây dựng được nghiệm thu và vị trí xây dựng trên công trình. Bởi vậy, nếu chỉ cần dựa trên bản vẽ hoàn công công việc, bản vẽ hoàn công bộ phận công trình xây dựng, giai đoạn thi công xây dựng thì nguời phụ trách thi công trực tiếp của nhà thầu thi công xây dựng tính toán được khối lượng cụ thể để thanh toán.
Làm được như vậy thì chủ đầu tư và nhà thầu thi công xây dựng có thời gian tính toán, kiểm tra và đối chiếu với khối lượng tính toán theo bản vẽ thiết kế và dự toán đã được phê duyệt được chính xác hơn.
Bản tính khối lượng thanh toán phải có sự xác nhận của Người đại diện theo quy định pháp luật của Bên giao thầu và của Bên nhận thầu. Nếu trong hợp đồng giám sát thi công xây dựng mà nhà thầu giám sát thi công xây dựng nhận quản lý và nghiệm thu khối lượng thì Người đại diện theo quy định pháp luật của nhà thầu này cũng phải xác nhận vào bản tính khối lượng thanh toán.
Hỏi:
Tại điểm a khoản 1 điều 26 Nghị định 99/2007/NĐ-CP có nêu về Hồ sơ thanh toán hợp đồng xây dựng như sau:
"... Hồ sơ thanh toán do bên nhận thầu lập bao gồm các tài liệu chủ yếu sau:
a) Biên bản nghiệm thu khối lượng thực hiện trong giai đoạn thanh toán có xác nhận của đại diện nhà thầu, Bên giao thầu và tư vấn giám sát (nếu có)".
Nhưng tại điểm 2.8.7 mục II của Thông tư 06/2007/TT-BXD lại nêu về Hồ sơ thanh toán hợp đồng xây dựng như sau:
"... Biên bản nghiệm thu khối lượng công việc hoàn thành (biên bản nghiệm thu chất lượng, khối lượng) tương ứng với khối lượng theo hợp đồng đó ký cho giai đoạn thanh toán có xác nhận của đại diện bên giao thầu hoặc đại diện nhà tư vấn (nếu có) và đại diện bên nhận thầu;"
Đề nghị Cục Giám định Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng cho biết rõ: Biên bản nghiệm thu khối lượng công việc hoàn thành (biên bản nghiệm thu chất lượng, khối lượng) hoặc Biên bản nghiệm thu khối lượng thực hiện trong giai đoạn thanh toán, cần thiết phải có xác nhận của đại diện các bên nào vì Nghị định 99/2007/NĐ-CP dùng từ " và tư vấn giám sát (nếu có)" còn ở Thông tư 06/2007/TT-BXD lại dùng từ "hoặc tư vấn giám sát (nếu có)".
Trả lời:
Trong các Biên bản nghiệm thu công việc xây dựng (mẫu phụ lục 4A), nghiệm thu bộ phận công trình, giai đoạn xây dựng (mẫu phụ lục 5A) và nghiệm thu hạng mục công trình và công trình hoàn thành để đưa vào sử dụng (mẫu Phụ lục 7) của Nghị định 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 của Chính phủ về quản lý chất lượng công trình xây dựng không yêu cầu phải có khối lượng cụ thể của các công việc thực hiện là vì các lý do sau:
a) Việc tính toán cụ thể khối lượng các công việc thực hiện không thể tính ngay được tại thời điểm nghiệm thu. Nếu yêu cầu phải tính toán tại chỗ thì rất khó chính xác và sẽ gây khó khăn cho chủ đầu tư và nhà thầu thi công xây dựng trong việc thanh toán.
b) Việc không nêu cụ thể khối lượng công việc thực hiện không có nghĩa là không nghiệm thu khối lượng đối tượng được nghiệm thu. Trong các mẫu Biên bản nêu trên luôn luôn yêu cầu ghi rõ tên công việc, bộ phận công trình xây dựng, giai đoạn thi công xây dựng được nghiệm thu và vị trí xây dựng trên công trình. Bởi vậy, nếu chỉ cần dựa trên bản vẽ hoàn công công việc, bản vẽ hoàn công bộ phận công trình xây dựng, giai đoạn thi công xây dựng thì nguời phụ trách thi công trực tiếp của nhà thầu thi công xây dựng tính toán được khối lượng cụ thể để thanh toán.
Làm được như vậy thì chủ đầu tư và nhà thầu thi công xây dựng có thời gian tính toán, kiểm tra và đối chiếu với khối lượng tính toán theo bản vẽ thiết kế và dự toán đã được phê duyệt được chính xác hơn.
Bản tính khối lượng thanh toán phải có sự xác nhận của Người đại diện theo quy định pháp luật của Bên giao thầu và của Bên nhận thầu. Nếu trong hợp đồng giám sát thi công xây dựng mà nhà thầu giám sát thi công xây dựng nhận quản lý và nghiệm thu khối lượng thì Người đại diện theo quy định pháp luật của nhà thầu này cũng phải xác nhận vào bản tính khối lượng thanh toán.