Tôi vẫn thấy một cái gì đó không thỏa đáng trong việc vận dụng VB 10521/BCT-TCNL để tính cho chi phí nhân công trong các thiết kế điện ĐZ & TBA vì các lẽ như sau:
- Trong một trả lời bạn đọc mới nhất cho bạn Phan Văn Đông "........quyết định điều chỉnh hay không điều chỉnh chi phí NC theo Nghị định số 103/2012/NĐ-CP thuộc thẩm quyền của địa phương. Đề nghị liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại địa phương để đề nghị hướng dẫn, trả lời". Nhưng tại các địa phương các tỉnh (theo tôi được biết) cũng có những văn bản, chủ trương chấp nhận mức lương vùng tối thiểu theo NĐ 103 (ví dụ vùng 4: 1.650.000đ/tháng). Như vậy, dù muốn hay không muốn các quy định mang tính pháp lý thống nhất trong một địa phương (một tỉnh) cũng đã có, cho nên nếu một sở Công thương của một tỉnh không thể phớt lờ VB pháp lý cao nhất của địa phương (cấp tỉnh) do vậy theo tôi nghĩ trong vai trò tham mưu cho cấp tỉnh, các Sở Công thương cần phải tham mưu cho cấp tỉnh ban hành những văn bản vận dụng phù hợp để dung hòa mức lương của NĐ 70 và VB 10521/BCT-TCNL phù hợp tính thực tiễn của địa phương của mình chứ. Đàng này cũng trong một lãnh thổ, địa phương mà lại có 02 mức lương khác nhau áp dụng cho cùng một đối tượng xây lắp (chưa kể công nhân ở ngành điện thuộc hệ nhân công thuộc nhóm 3 > nhóm 1 của ngành XD). Hỏi ai, thì cũng nhận được cái lắc đầu (đơn vị tư vấn, đơn vị thi công) và cả sự tranh cãi của 02 cấp QLNN thuộc 02 sở cũng không đi đến sự ngã ngũ, mạnh tư vấn thì tư vấn lập, mạnh cấp TT QLNN thẩm tra cắt.....(mạnh thi công la là không lời, mạnh cấp QLNN chuyên ngành nói làm đúng và có lời).
- Cái khổ ở đây chính là căn nguyên bộ đơn giá này được công bố của Bộ Công thương dựa trên đề nghị của EVN là cơ sở ban hành rộng rãi cho toàn xã hội, nhưng khi áp dụng riêng cho ngành mình thì EVN chấp nhận mức lương theo NĐ 70. Nhưng đó cũng chỉ là văn bản áp dụng trong nội bộ XDCB của EVN thôi, chứ đâu phải là văn bản áp dụng đại trà ra toàn xã hội (phải là bộ Công thương ban hành) hoặc theo thẩm quyền lãnh thổ là UBND tỉnh chứ không phải là các VB của cấp công ty điện lực hoặc sở ngành trực thuộc tỉnh. Vậy việc, tính toán để đưa ra một hệ số chung không ai có thể làm thay bộ Công thương được.
- Để dung hòa các vấn đề trên, tôi vận dụng như sau: " với nhân công tôi lấy hệ số lương của 02 NĐ 103 và NĐ 70 để tính phù hợp cho mức lương mà các tỉnh đã công bố" còn về giá ca máy "tôi lấy hoàn toàn theo giá ca máy của quy định VB 10521/BCT-TCNL". Vậy cách làm vận dụng này của tôi giải quyết được 02 vấn đề "mức lương theo NC mức lương của NĐ 103 và các văn bản của tỉnh" còn về ca máy thì thỏa mãn điều kiện giữ nguyên văn bản 10521 đã có mà bộ Công thương chưa cho phép hiệu chỉnh. Tuy về mặc thiệt thòi một ít về MTC nhưng cách làm này bên thi công lại hoàn toàn ủng hộ vì họ không thiệt thòi lớn. Các bạn nghĩ sao ? xin cho ý kiến, còn lên cấp QLNN chuyên ngành chỉnh sao tùy ở họ.
- Trong một trả lời bạn đọc mới nhất cho bạn Phan Văn Đông "........quyết định điều chỉnh hay không điều chỉnh chi phí NC theo Nghị định số 103/2012/NĐ-CP thuộc thẩm quyền của địa phương. Đề nghị liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại địa phương để đề nghị hướng dẫn, trả lời". Nhưng tại các địa phương các tỉnh (theo tôi được biết) cũng có những văn bản, chủ trương chấp nhận mức lương vùng tối thiểu theo NĐ 103 (ví dụ vùng 4: 1.650.000đ/tháng). Như vậy, dù muốn hay không muốn các quy định mang tính pháp lý thống nhất trong một địa phương (một tỉnh) cũng đã có, cho nên nếu một sở Công thương của một tỉnh không thể phớt lờ VB pháp lý cao nhất của địa phương (cấp tỉnh) do vậy theo tôi nghĩ trong vai trò tham mưu cho cấp tỉnh, các Sở Công thương cần phải tham mưu cho cấp tỉnh ban hành những văn bản vận dụng phù hợp để dung hòa mức lương của NĐ 70 và VB 10521/BCT-TCNL phù hợp tính thực tiễn của địa phương của mình chứ. Đàng này cũng trong một lãnh thổ, địa phương mà lại có 02 mức lương khác nhau áp dụng cho cùng một đối tượng xây lắp (chưa kể công nhân ở ngành điện thuộc hệ nhân công thuộc nhóm 3 > nhóm 1 của ngành XD). Hỏi ai, thì cũng nhận được cái lắc đầu (đơn vị tư vấn, đơn vị thi công) và cả sự tranh cãi của 02 cấp QLNN thuộc 02 sở cũng không đi đến sự ngã ngũ, mạnh tư vấn thì tư vấn lập, mạnh cấp TT QLNN thẩm tra cắt.....(mạnh thi công la là không lời, mạnh cấp QLNN chuyên ngành nói làm đúng và có lời).
- Cái khổ ở đây chính là căn nguyên bộ đơn giá này được công bố của Bộ Công thương dựa trên đề nghị của EVN là cơ sở ban hành rộng rãi cho toàn xã hội, nhưng khi áp dụng riêng cho ngành mình thì EVN chấp nhận mức lương theo NĐ 70. Nhưng đó cũng chỉ là văn bản áp dụng trong nội bộ XDCB của EVN thôi, chứ đâu phải là văn bản áp dụng đại trà ra toàn xã hội (phải là bộ Công thương ban hành) hoặc theo thẩm quyền lãnh thổ là UBND tỉnh chứ không phải là các VB của cấp công ty điện lực hoặc sở ngành trực thuộc tỉnh. Vậy việc, tính toán để đưa ra một hệ số chung không ai có thể làm thay bộ Công thương được.
- Để dung hòa các vấn đề trên, tôi vận dụng như sau: " với nhân công tôi lấy hệ số lương của 02 NĐ 103 và NĐ 70 để tính phù hợp cho mức lương mà các tỉnh đã công bố" còn về giá ca máy "tôi lấy hoàn toàn theo giá ca máy của quy định VB 10521/BCT-TCNL". Vậy cách làm vận dụng này của tôi giải quyết được 02 vấn đề "mức lương theo NC mức lương của NĐ 103 và các văn bản của tỉnh" còn về ca máy thì thỏa mãn điều kiện giữ nguyên văn bản 10521 đã có mà bộ Công thương chưa cho phép hiệu chỉnh. Tuy về mặc thiệt thòi một ít về MTC nhưng cách làm này bên thi công lại hoàn toàn ủng hộ vì họ không thiệt thòi lớn. Các bạn nghĩ sao ? xin cho ý kiến, còn lên cấp QLNN chuyên ngành chỉnh sao tùy ở họ.